Pages

Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2024

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN(PHẦN TRIẾT HỌC)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

(PHẦN TRIẾT HỌC)

Cấu trúc bài làm gồm:

I. Mở bài: Dẫn dắt vào chủ đề của câu hỏi

II. Nội dung:

1.Lý thuyết (Ví dụ: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức).

2. Ý nghĩa phương pháp luận (Ví dụ: tôn trọng quy luật khách quan trong nhận thức và hành động) => phần ý nghĩa phương pháp luận này phải làm rõ được 2 khía cạnh: phương pháp luận nhận thức và phương pháp luận hành động.

3. Liên hệ: Có thể liên hệ cơ quan, đơn vị, công việc của cá nhân hoặc liên hệ với tình hình đất nước.

III. Kết luận


Câu 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này?

Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng. Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất. Trước tiên ta phải tìm hiểu thế nào là vật chất và thế nào là ý thức

Vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của con người”.

(Phần in nghiêng là thông tin bổ sung)

- 5 thuộc tính của vật chất:

  • Tồn tại khách quan (thuộc tính này dùng để phân biệt với ý thức): Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được

  • Vận động: 5 hình thức vận động của vật chất (từ thấp đến cao) gồm:Vận động cơ học; Vận động vật lý; Vận động hóa học; Vận động sinh học; Vận động XH

  • Phản ánh: Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan của con người. Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.

  • Không gian: Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm một ví trí nhất định, có một kích thước nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với những khách thể khác.

  • Thời gian: Sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu hiện ở mức độ lâu dài hay mau chóng, ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động.

- Vật chất với tư cách là phạm trù triết học dùng chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.

Ý thức: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

(Phần in nghiêng là thông tin bổ sung)

- Nguồn gốc XH của ý thức: Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, là một quá trình trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động vật. Một trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động vật sử dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà bắt giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.

- Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là kết quả hoạt động chủ động của con người => Hoạt động nhận thức có tính năng động, sáng tạo.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau:

a. Vai trò của vật chất đối với ý thức

- Vật chất là nguồn gốc của ý thức thể hiện: 

+ Vật chất có trước, ý thức có sau. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất...

+ Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ)... 

- Vật chất quyết định nội dung, đặc điểm của ý thức: Biểu hiện điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. 

-> Từ vấn đề này hãy giải thích một số vấn đề thực tiễn: Vì sao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam so với thế giới rất thấp; căn nguyên của tính tùy tiện, tự do... của người sản xuất nhỏ?...

- Vật chất quyết định sự biến đổi của ý thức: khi cơ sở, điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo

-> Từ vấn đề này hãy giải thích một số vấn đề thực tiễn: Nhu cầu về đời sống vật chất ở Việt Nam hiện nay có gì khác so với thời kỳ bao cấp? Vấn đề chọn trường, ngành học của sinh viên hiện nay thay đổi so với trước kia như thế nào? Tư duy của người nông dân Việt Nam hiện nay thay đổi so với tư duy truyền thống như thế nào?.v.v..

b. Vai trò của ý thức đối với vật chất

* Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người: Chỉ có con người mới có ý thức, bản chất của ý thức mang tính năng động, sáng tạo. Vì vậy nói tới sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất chính là nói đến sự tác động của con người đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn. 

- Ý thức chỉ đạo, hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn, (ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan), giúp con người xác định được: mục tiêu, phương hướng, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ... để đạt được mục tiêu của mình 

- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực, thể hiện:

+ Tác động tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mạng, có nghị lực... thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, vượt qua những thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, cải tạo được thế giới...

+ Tác động tiêu cực: Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất, quy luật khách quan thì hướng hành động của con người đi ngược lại các quy luật khách quan, hành động đó sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn...


c. Ý nghĩa phương pháp luận

Tính biện chứng theo VC và YT có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, VC quyết định YT, còn YT tác động trở lại VC. Khác với tính siêu hình – xem sự vật, hiện tượng luôn trong trạng thái tĩnh tại, độc lập, đứng im, tách rời sự vật hiện tượng với thế giới xung quanh và không có mối liên hệ với xung quanh

Xuất phát từ vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức: Đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của con người. thể hiện qua các yêu cầu sau:

.

- Tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức và hành động theo quy luật khách quan.

- Tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, của xã hội.

- Phải xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định để đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn thúc đẩy xã hội tiến lên.

- Nếu chủ quan, duy ý chí, nôn nóng tất yếu dẫn đến sai lầm trong hoạt động nhận thức và thất bại trong hoạt động thực tiễn.

- Lưu ý: Nếu tuyệt đối hóa yếu tố vật chất sẽ rơi vào quan điểm duy vật tầm thường.

* Xuất phát từ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất: Đòi hỏi phải luôn luôn chú ý phát huy đầy đủ tính năng động, chủ quan, sự sáng tạo của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới, muốn vậy:

- Tôn trọng tri thức khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin, hướng dẫn quần chúng hành động... (liên hệ với việc đưa tri thức khoa học tới nông dân ở Việt Nam hiện nay...)

- Khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của con người Việt Nam, quyết tâm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu...

- Lưu ý: Nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm

* Quan điểm khách quan cũng yêu cầu phải chống bệnh chủ quan, duy ý chí, tuyệt đối hóa ý thức, tinh thân trong hoạt động thực tiễn.

Liên hệ: Liên hệ tới công việc đơn vị hoặc bản thân

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 2: Phân tích các nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu hai nguyên lý cơ bản và ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật?

Đề thi cuối kỳ sẽ lựa chọn một trong các nguyên lý và quy luật này.

A Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

1. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến (Trang 49-53 trong giáo trình)

- Các nhà triết học siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến, họ cho rằng sự vật, hiện tượng có thể tồn tại một cách cô lập, tách rời, cái này bên cạnh cái kia…

- Các nhà triết học duy vật biện chứng cho rằng: thế giới có vô vàn các sự vật, hiện tượng, chúng thống nhất với nhau ở tính vật chất nên tất yếu chúng phải có mối liên hệ với nhau.

+ Khái niệm “Liên hệ”: dùng để chỉ sự  phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của một sự vậy, hiện tượng, một quá trình.

- Khái niệm “Liên hệ phổ biến” là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng phong phú nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Cơ sở của mối liên hệ này là tính thống nhất vật chất của thế giới.

- Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực; nội dung và hình thức... Chúng được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động nhận thức, hoạt động cải tạo tự nhiên, xã hội. Trong đó, các phạm trù cái riêng, cái chung, cái đơn nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng là cơ sở phương pháp luận của các phương pháp phân tích và tổng hợp; diễn dịch và quy nạp; khái quát hóa, trừu tượng hóa để từ đó nhận thức được toàn bộ các mối liên hệ theo hệ thống. Các cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả; khả năng và hiện thực là cơ sở phương pháp luận chỉ ra các mối liên hệ và sự phát triển giữa các sự vật, hiện tượng là một quá trình. Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa dạng của các phương pháp nhận thức và thực tiễn.

 Tính chất của mối liên hệ

- Tính khách quan của các mối liên hệ

+ Mối liên hệ là cái vốn có của các sự vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người hay thần linh, thượng đế.

+ Chỉ có liên hệ với nhau, sự vật, hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát triển.

-  Tính phổ biến của các mối liên hệ

+ Vì không phải chỉ có các sự vật, hiện tượng liên hệ với nhau, mà các yếu tố, bộ phận cấu thành chúng cũng liên hệ với nhau. Không phải chỉ có các thời kỳ trong một giai đoạn, các giai đoạn trong một quá trình liên hệ với nhau, mà giữa các quá trình cũng liên hệ với nhau trong sự vận động và phát triển của thế giới.

+ Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn tư duy, các sự vật, hiện tượng cũng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau.

- Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ

+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều có nhiều mối liên hệ khác nhau (bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu…), chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, phát triển của sự vật đó.

+ Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng lại có những biểu hiện phong phú khác nhau trong những điều kiện cụ thể khác nhau…

     Ý nghĩa phương pháp luận 

* Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ cho nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm toàn diện.

- Quan điểm toàn diện

+ Trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, mặt của chính sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa sự sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác => Như vậy, mới nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.

=> Liên hệ với thực tiễn 

* Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ, do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm lịch sử – cụ thể.

         - Quan điểm lịch sử – cụ thể

+ Trong nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn.

* Từ quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể thì trong nhận thức và thực tiễn cần chống lại quan điểm phiến diện (xem xét qua loa một vài mối liên hệ đã vội đánh giá sự vật một cách chủ quan); chống lại quan điểm chiết trung (san bằng các mối liên hệ, xem chúng có vị trí, ý nghĩa như nhau); chống quan điểm ngụy biện, đánh tráo khái niệm (những người ngụy biện cũng đề cập tới các yếu tố, các mặt cấu thành sự vật nhưng đánh lộn vai trò của chúng, biến cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất và ngược lại).

Liên hệ: 


2. Nguyên lý về sự phát triển (Trang 53-57 trong giáo trình)  

a. Khái niệm phát triển 

-  Quan điểm siêu hình: Phát triển là sự thay đổi về lượng mà không có sự thay đổi về chất; phát triển như là một quá trình liên tục, không có những bước quanh co, thụt lùi...

- Quan điểm biện chứng:

+ Khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng tiến lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.

+ Khái niệm “phát triển” không đồng nhất với khái niệm “vận động”. Phát triển không chỉ là sự tăng lên, giảm đi về lượng mà còn là sự nhảy vọt về chất.

b. Tính chất của sự phát triển 

- Tính khách quan của sự phát triển: Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng, nhờ đó sự vật luôn luôn phát triển.

-> Hãy giải thích: Sự phát triển của một con người phải trải qua nhiều giai đoạn và phải giải quyết nhiều mâu thuẫn trong lòng nó? Sự phát triển của xã hội loài người cũng phải giải quyết nhiều mâu thuẫn khác nhau…? => Sự phát triển đó mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người hay do đấng siêu nhiên tạo ra.

- Tính phổ biến của sự phát triển: Quá trình phát triển diến ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong mọi hiện tượng, quá trình => Trong mỗi quá trình biến đổi có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.

- Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng có sự khác nhau trong sự phát triển; bản thân mỗi sự vật cũng có sự phát triển không giống nhau… => Nguyên nhân là do: Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại trong không gian và thời gian khác nhau, chịu sự tác động của nhiều sự vật, hiện tượng, yếu tố khác nhau... => Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng.

c. Ý nghĩa phương pháp luận

Khi nghiên cứu nguyên lý này, trong hoạt động nhận thức và hoạt thực tiễn, cần phải có quan điểm phát triển:

+ Đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên để dự tính được xu hướng đi lên của nó, có thái độ đúng đắn đối với cái mới, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển. 

+ Con đường của sự phát triển là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự phát triển, khi gặp khó khăn, thất bại tạm thời phải bình tĩnh, tin tưởng vào tương lai, không bi quan, chán nản.

Liên hệ:...

B. Ba qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

a. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại (Trang 82-87 giáo trình)

* Khái niệm chất và khái niệm lượng

- Khái niệm chất: Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng.

Trong khái niệm về chất cần chú ý một số điểm sau:

+ Chất của sự vật là khách quan, phổ biến.

+ Chất của sự vật gồm các thuộc tính (thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của sự vật được bộc lộ ra khi tác động qua lại với các sự vật khác. Đó có thể là tính chất, trạng thái, yếu tố,… của sự vật): Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản, tổng hợp các thuộc tính cơ bản tạo nên chất của sự vật, khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi.

+ Chất của sự vật còn được xác định bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó, do đó, chất của sự vật không chỉ thay đổi khi thay đổi những yếu tố cấu thành mà còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố đó.

+ Chất là mặt tương đối ổn định (ít thay đổi), nước ở thể rắn, lỏng, khí (chất) ổn định, sự thay đổi nhiệt độ từ 40 sang 50oc chưa làm thay đổi chất (lỏng)…

+ Mỗi sự vật có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác….

- Khái niệm lượng: Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Trong khái niệm lượng cần chú ý một số điểm:

+ Lượng của sự vật mang tính khách quan, phổ biến.

+ Lượng của sự vật không chỉ được xác định bởi những đại lượng chính xác mà còn biểu thị dưới dạng trừu tượng, khái quát.

+ Lượng là mặt thường xuyên biến đổi của sự vật.

+ Sự phân biệt chất và lượng cũng chỉ là tương đối, cái trong mối quan hệ này được coi là chất thì trong mối quan hệ khác được coi là lượng.

* Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

- Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất

+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều có sự thống nhất giữa hai mặt chất và lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy).

-> Phân tích khía cạnh này qua một số ví dụ: Về tính thống nhất giữa chất và lượng trong phân tử nước (H2o), “chất”: Sự thống nhất của các thuộc tính khách quan vốn có của “nước”: Không màu, không mùi, không vị, có thể hòa tan muối, axit…, “lượng”: mỗi phân tử “nước” được cấu tạo từ 02 nguyên tử Hyđro và 01 nguyên tử Oxy; tiền nào của nấy;...

+ Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay đổi về chất được gọi là độ. Nói cách khác, độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật

+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật

+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới

- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng: Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi về lượng mới (làm thay đổi quy mô, nhịp điệu, tốc độ... phát triển của sự vật). Như vậy, không chỉ sự thay đổi về lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng.

-> Ví dụ: Nhịp điệu vận động, phát triển của xã hội dưới cơ chế thị trường nhanh hơn nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; hay khi trở thành cử nhân thì tốc độ đọc, hiểu vấn đề sẽ tốt hơn khi còn là sinh viên…

-> Một số vấn đề thực tiễn cần suy nghĩ: Có người cho rằng học ở đại học nhàn hơn học phổ thông; có trường hợp học sinh lớp 7 mà chưa đánh vần thành thạo; bác sỹ thú y không biết cầm kim tiêm, không biết mổ sẻ như thế nào?…-> Phải học thật sự để chất nào lượng ấy, chất mới thì lượng cũng phải mới… 

- Các hình thức của bước nhảy: Bước nhảy toàn bộ, bước nhảy cục bộ… 

Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật. Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với độ mới. Đó chính là cách thức phát triển của sự vật. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, biến đổi.

* Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đó cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.

- Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.

- Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” – nhấn mạnh bước nhảy khi chưa đủ sự tích luỹ về lượng; bởi lẽ, khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm. Đồng thời, phải tránh “hữu khuynh” – tuyệt đối hoá sự tích luỹ về lượng, không dám thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng, khi ấy dễ rơi vào bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Khi tích luỹ về lượng đã đủ thì phải thực hiện bước nhảy.

-> Một số vấn đề thực tiễn: Trái cây ăn non (xanh) hoặc già (chín) quá liệu có ngon hay không? Vừa học đại học năm thứ nhất muốn tốt nghiệp có được không (lượng non)?…

- Vì bước nhảy của sự vật đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể.

b. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (Trang 87-93 giáo trình)

* Các khái niệm

- Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

- Khái niệm mặt đối lập dùng chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.

-> Ví dụ, đồng hoá và dị hoá trong cơ thể động vật; cực bắc và cực nam trong thanh nam châm; điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; cung và cầu trong nền sản xuất xã hội...

- Lưu ý: Mâu thuẫn được hình thành từ hai mặt đối lập nhưng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ khi hai mặt đối lập tồn tại trong cùng một sự vật, trong cùng một thời gian, về cùng một mối liên hệ và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. 

-> Ví dụ, đồng hoá và dị hoá trong cùng một cơ thể động vật, cùng về một mối liên hệ ở đây là cùng về năng lượng (đồng hoá là nạp năng lượng, dị hoá là giải phóng năng lượng), đồng hoá và dị hoá thường xuyên tác động theo nghĩa nhờ đồng hoá mà cơ thể mới có nhu cầu dị hoá, ngược lại, nhờ dị hoá thì cơ thể mới đồng hoá được…

- Các tính chất chung của mâu thuẫn

+ Tính khách quan và tính phổ biến: Do mối liên hệ, sự chuyển hóa, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập là cái vốn có và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện tượng.

+ Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thể bao hàm nhiều loại mẫu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; mỗi mâu thuẫn giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

* Quá trình vận động của mâu thuẫn

- Sự thống nhất của các mặt đối lập trong mâu thuẫn biểu hiện: 

+ Hai mặt đối lập phù hợp, đồng nhất, tác động ngang nhau.

-> Ví dụ: Cực bắc và cực nam trong thanh nam châm cùng được tạo bởi một loại vật liệu như nhau; giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở giai đoạn đầu vừa ra đời tự phát trong lòng xã hội phong kiến, biểu hiện của sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX ở thời kỳ đầu CNTB vừa ra đời...

+ Hai mặt đối lập làm tiền đề, điều kiện tồn tại cho nhau. 

-> Ví dụ: Đồng hoá và dị hoá trong cơ thể sống; giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong CNTB... mặc dù các mặt đối lập đấu tranh gay gắt, quyết liệt nhưng vẫn phải nương tựa vào nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, không có mặt đối lập này, sẽ không có mặt đối lập kia...

- Sự “đấu tranh” của các mặt đối lập trong mâu thuẫn.

+ “Đấu tranh” của các mặt đối lập trong mâu thuẫn là đấu tranh biện chứng, trong đấu tranh vừa có bài trừ, lọc bỏ, vừa có giữ lại, kế thừa, đấu tranh không phải là nói “không” một cách giản đơn hay phủ định sạch trơn.

-> Một số ví dụ cần suy nghĩ: Xác lập công hữu, thủ tiêu tư hữu; xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thủ tiêu thị trường ở VN trước năm 1986...; khi xã hội cũ mất đi (phong kiến ở VN) thì nhiều tư tưởng, quan niệm cũ – tiêu cực cần phải loại bỏ, nhưng cũng có những tư tưởng, quan niệm cũ - tích cực cần được giữ lại...  

- Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh.

+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong mâu thuẫn không tách rời nhau, trái lại, gắn liền, xâm nhập, thẩm thấu vào nhau, thậm chí chúng còn làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau: không có thống nhất, không có đấu tranh; đấu tranh nhằm xoá bỏ thống nhất cũ, xác lập thống nhất mới cao hơn. Thống nhất - đấu tranh, đấu tranh - thống nhất của các mặt đối lập không chỉ là điều kiện duy trì sự tồn tại của sự vật, mà hơn thế nó còn tạo ra động lực thúc đẩy sự vật, hiện tượng vận động phát triển không ngừng.

+ Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng, nó diễn ra hết sức phong phú, đa dạng, hoặc cả hai mặt đối lập cùng mất đi, hình thành mâu thuẫn mới trong sự vật mới, ví dụ: CNTB ra đời thay thế xã hội phong kiến...; hoặc có sự dung hợp hai mặt đối lập, ví dụ: Dân chủ và tập trung trong sinh hoạt dân chủ của xã hội hiện đại...; hoặc mâu thuẫn bị xoá bỏ hoàn toàn khi loài người chuyển lên chế độ cộng sản chủ nghĩa...

- Các giai đoạn của quá trình vận động của mâu thuẫn: Quá trình này có thể trải qua 5 giai đoạn: từ thống nhất -> khác nhau -> đối lập -> xung đột -> giải quyết mâu thuẫn, xác lập thống nhất mới, sự vật mới ra đời, sự phát triển của sự vật, hiện tượng được thực hiện.

* Phân loại mâu thuẫn

- Dựa vào các căn cứ khác nhau, người ta chia ra thành các loại mâu thuẫn khác nhau như mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài; mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu; mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng…

* Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển do đó trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.

- Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú do đó, trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp.

c. Quy luật phủ định của phủ định (trang 40-42 giáo trình)

* Các khái niệm

- Phủ định là khái niệm chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.

- Có hai loại quan niệm khác nhau về phủ định, là phủ định siêu hình và phủ định biện chứng:

+ Phủ định siêu hình: là sự phủ định chấm dứt sự phát triển.

+ Phủ định biện chứng: là sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng có đặc điểm: 

-> Mang tính khách quan: vì nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, đó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân nó, tạo ra khả năng cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì thế phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định.

-> Mang tính kế thừa: Kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật, cái mới ra đời trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ tạo nên tính liên tục của sự phát triển.

* Nội dung quy luật phủ định của phủ định

- Tính chu kỳ của sự phát triển: Từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ định, sự vật dường như quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn.

+ Số lần phủ định đối với mỗi chu kỳ của từng sự vật cụ thể có thể khác nhau + Cơ chế của quá trình phủ định của phủ định: 

Cái khẳng định        ->     Cái phủ định         ->       Phủ định của phủ định

A                       (pđ lần 1) B                           (pđ lần 2)  A,

-> Phủ định lần thứ nhất: Làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó, tức là chuyển từ cái khẳng định sang cái phủ định

-> Phủ định lần thứ hai (phủ định cái phủ định): Sự vật mới ra đời, đối lập với cái đối lập nên sự vật dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, đó là đặc điểm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định.

+ Nguyên lý tính chu kỳ của sự phát triển có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng: nếu nắm được chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng, tất yếu dự báo được tương lai của nó.

- Khuynh hướng của sự phát triển (theo đường "xoáy ốc")

+ Phép biện chứng duy vật thừa nhận, vận động phát triển đi lên là xu hướng chung của thế giới nhưng không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường "xoáy ốc" quanh co, phức tạp.

+ Lênin đã từng khẳng định: "Nếu quan niệm lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không có vấp váp quanh co, không có thụt lùi, là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận", sở dĩ như vậy là vì: trong điều kiện nhất định, cái cũ tuy đã cũ nhưng còn có những yếu tố, mặt, bộ phận vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới vì là mới nên còn non nớt, chưa có khả năng thắng ngay cái cũ. Do đó, có lúc, có nơi, cái mới hợp quy luật của sự phát triển nhưng vẫn bị cái cũ tác động trở lại, gây khó khăn, cản trở, cái mới phải tạm thời thụt lùi. Vì vậy, sự phát triển có tính quanh co, phức tạp diễn ra theo đường "xoáy ốc".

* Ý nghĩa phương pháp luận

- Khi xem xét sự vận động phát triển của sự vật, phải xem xét nó trong quan hệ đối lập: cái mới ra đời từ cái cũ, cái lạc hậu, cái phủ định ra đời từ cái khẳng định. Có như vậy, mới thấy được những nhân tố tích cực ở cái cũ mà cái mới cần phải kế thừa trong sự phát triển đi lên.

- Sự phát triển diễn ra theo đường "xoáy ốc", do vậy phải kiên trì, chờ đợi, không được nôn nóng, vội vàng nhưng phải theo hướng bảo vệ cái mới, ủng hộ cái mới, tin tưởng cái mới, hợp quy luật nhất định sẽ chiến thắng; cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới.

- Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo hướng tiến bộ

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 3: Phân tích mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? (Trang 105-115 giáo trình)

Thực tiễn là một phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức Macxit mà còn của toàn bộ nền triết học Marx-Lenin nói chung. Các học thuyết triết học trước Marx đã không thấy được và càng không đánh giá được một cách đúng đắn vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Các nền triết học đó chỉ mới tập trung chủ yếu giải thích thế giới bên ngoài là gì theo những cách khác nhau. Khắc phục những nhược điểm trước đây và kế thừa những lý luận tiến bộ về thực tiễn của các học thuyết khoa học khác, với việc phát hiện và đưa phạm trù thực tiễn vào trong triết học, Marx và Engel đã thực hiện một bước chuyển biến mang tính cách mạng trong lý luận nhận thức nói riêng và triết học nói chung. Điều này làm cho triết học Macxit trở thành triết học của hoạt động và mang tính cách mạng. Nó không chỉ giải thích đúng đắn về bản chất của TGKQ, mà còn hướng dẫn con người hoạt động nhằm cải tạo thế giới khách quan đó. 

  1. Khái niệm: 

  1. Nhận thức:là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng tạo dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể.

+ Chủ thể nhận thức: theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung. Hiểu một cách cụ thể, chủ thể là nhóm người như giai cấp, dân tộc, tập thể, cá nhân… Tuy nhiên không phải bất kỳ con người nào cũng trở thành chủ thể nhận thức, con người chỉ trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm nhận thức và biến đổi khách thể.

+ Khách thể nhận thức: không phải toàn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là bộ phận, là lĩnh vực nào đó của nó ở trong miền hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của chủ thể.

  1. Thực tiễn: là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Hoạt động thực tiễn khác với hoạt động tư duy ý thức, trong hoạt động thực tiễn con người đã sử dụng những công cụ, những phương tiện vật chất tác động vào những đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng, do vậy hoạt động thực tiễn trước hết là hoạt động có tính vật chất của con người. Đó là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người.

Hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người, hoạt động đó nhằm thoả mãn những nhu cầu, yêu cầu của con người trong quá trình tồn tại và phát triển. Những gì có sẵn trong tự nhiên không làm cho con người thoả mãn những yêu cầu. Con người cải tạo giới tự nhiên bằng hoạt động thực tiễn nhằm tạo nên những vật phẩm, của cải vật chất vốn không có sẵn trong giới tự nhiên khác với con vật chỉ hoạt động theo bản năng để thích nghi với môi trường và thừa hưởng những gì có sẵn trong tự nhiên. Như vậy hoạt động thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và XH, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của quan hệ giữa con người và thế giới bên ngoài, là tiêu chí cơ bản để phân biệt con người và con vật.

Khi mới xuất hiện, con người hoạt động theo bản năng; những hoạt động này không được quan niệm là hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn là những hoạt động đã có vai trò của ý thức, mặt khác, hoạt động thực tiễn còn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là những hoạt động mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng nhằm tạo ra sản phẩm vật chất nhất định nào đó. Đối tượng hoạt động của con người là TGKQ. Con người sử dụng các phương tiện để tác động vào đối tượng vật chất theo những hình thức và mức độ khác nhau tùy thuộc mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn là những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của cá nhân và cộng đồng. Như vậy, hoạt động vật chất là những hoạt động mà đối tượng, phương tiện và kết quả của quá trình hoạt động được cảm nhận bằng các giác quan của con người.

Mỗi 1 hoạt động của con người đều mang tính lịch sử, cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong 1 giai đoạn nhất định nào đó. Thực tiễn cũng có quá trình vận động và phát triển của mình cùng với sự vận động phát triển của xã hội loài người. Trình độ phát triển của thực tiễn nói lên trình độ chinh phục giới tự nhiên và làm chủ xã hội của con người. Mỗi một thời kỳ, một giai đoạn trình độ đó được biểu hiện khác nhau. Không có hoạt động thực tiễn cụ thể nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu sự chi phối bởi trình độ của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục đích hoạt động.

Hoạt động của con người do 1 cá nhân hay 1 cộng đồng thực hiện. Dù hoạt động đó chỉ đáp ứng nhu cầu cho 1 người, nhưng nó vẫn tham gia giải quyết những vấn đề chung của XH. Mặt khác, do nhu cầu của XH mà xuất hiện 1 hoạt động cụ thể nào đó. Trong XH hiện đại, hoạt động của bất kỳ cá nhân nào cũng mang tính lịch sử - XH, thông qua XH để thực hiện mục đích của mình. Do đó, về mặt nội dung cũng như phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn của con người mang tính XH sâu sắc, được thực hiện do cộng đồng, vì cộng đồng.

Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu có sự tham gia của ý thức, của quá trình nhận thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức về đối tượng,… đặc biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động. Mục đích của hoạt động thực tiễn là nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân và XH. Mỗi hoạt động đều có mục đích khác nhau để giải quyết nhu cầu thực tế, không có hoạt động nào không có mục đích, mặc dù kết quả của hoạt động thực tiễn không phải lúc nào cũng diễn ra phù hợp với mong muốn của con người. 

  1. Các hình thức hoạt động thực tiễn 

Hoạt động sản xuất của cải vật chất XH (hoạt động sản xuất vật chất – cảm tính): theo Marx, hoạt động sản xuất vật chất của con người có 3 hình thức: đó là hoạt động sản xuất vật chất – cảm tính, tức là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất; hoạt động sản xuất tinh thần, hoạt động sản xuất bả năng, tức là sản xuất duy trì nòi giống của con người. Ba hình thức hoạt động đó đều nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Nhưng sản xuất của cải vật chất là dạng hoạt động nguyên thuỷ và cơ bản nhất, trong đó, con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cùng những điều kiện khác nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Nó quyết định sự chuyển biến từ vượn sang người. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất – cảm tính mà con người hoàn thiện mình cả về mặt sinh học, lẫn mặt XH. Do đó nó quyết định sự phát triển của XH, quyết định các dạng hoạt động thực tiễn khác.

Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong XH nhằm cải biến các quan hệ xã hội, các chế độ xã hội có tác dụng trực tiếp trong việc thúc đẩy sự chuyển biến sự thay đổi của các chế độ xã hội, đặc biệt là sự đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội . Hoạt động chính trị XH không chỉ thể hiện nhu cầu bình đẳng về vật chất mà còn bình đẳng về tinh thần con người. Thông qua hoạt động chính trị - XH mà con người chuyển biến từ vương quốc tất yếu sang vương quốc của tự do. Hoạt động sản xuất vật chất – cảm tính thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của XH loài người. Nhưng muốn chuyển biến từ hình thái kinh tế - XH này sang hình thái kinh tế - XH khác theo hướng tiến bộ nhất thiết phải thông qua hoạt động chính trị - XH mang tính tự giác của con người.

Hoạt động thực nghiệm khoa học: đây là một dạng hoạt động đặc biệt của thực tiễn được tiến hành trong môi trường trong điều kiện nhân tạo gần giống với trạng thái tự nhiên và XH nhằm xác định các quy luật của đối tượng cần nghiên cứu, nhằm nhận thức và cải tạo tự nhiên xã hội. Hoạt động thực nghiệm khoa học có thể giúp con người tăng khả năng khám phá hiện thực khách quan, hiện thực hóa khả năng nhận thức của con người. Dạng hoạt động này ngày càng trở nên quan trọng trong sự phát triển của xã hội đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học công nghệ hiện nay.

  • Chú ý: 

Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy có sự khác nhau, nhưng chúng có sự thống nhất và có chung chủ thể hoạt động, có cùng mục đích; chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó sự phân biệt giữa các hình thức hoạt động thực tiễn chỉ mang tính tương đối. Hoạt động sản xuất vật chất không thể không hoạt động trong cộng đồng XH, không thể không có vai trò của thực nghiệm khoa học. Mặc dù hoạt động chính trị XH trực tiếp tác động đến những vấn đề của đời sống chính trị tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại tác động tích cực đến phát triển sản xuất, phát triển kinh tế XH, cũng như những vấn đề có tính quy luật mà hoạt động thực nghiệm khoa học đang quan tâm. Cũng như vậy, hoạt động thực nghiệm khoa học không thể không lấy mục đích phục vụ kinh tế XH.

Trong ba dạng hoạt động trên thì hoạt động lao động sản xuất có vai trò cơ bản nhất, mặc dù các hoạt động chính trị XH, hoạt động thực nghiệm khoa học diễn ra thường xuyên, quan trọng. Nhưng hoạt động sản xuất vật chất tác động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác, nó là hoạt động trung tâm, chủ yếu của con người.

Ngoài ra, trên cơ sở những hình thức thực tiễn cơ bản trên, 1 số lĩnh vực của thực tiễn như hoạt động giáo dục, hoạt động nghệ thuật,… cũng được hình thành. Nó cũng tác động vào quá trình tồn tại và phát triển của XH. Đó là những hình thức thực tiễn phát sinh, hình thức đặc thù của thực tiễn.

  1. Vai trò của thực tiễn: Thực tiễn có vai trò hết sức quan trọng đối với nhận thức, đó là sơ sở, động lực, mục đích của nhận thức.

Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức

Xét 1 cách trực tiếp, những tri thức mà con người có được đều là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công lẫn thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành tri thức. Bằng sự tác động của mình, con người đã buộc thế giới tự nhiên và xã hội bộc lộ những thuộc tính, đặc điểm, tính quy luật của nó để từ đó con người có ý thức và tri thức về hiện thực khách quan. Vì vậy, chính nhờ hoạt động thực tiễn đã cung cấp những tư liệu, tài liệu, tri thức làm cơ sở cho mọi tri thức có được ở con người dù trực tiếp hay gián tiếp, đối với người này hay người khác, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay trình độ khoa học lý luận,… xét đến cùng đều từ thực tiễn. 

Hơn thế nữa, quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những tri thức của con người. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, nhận thức của con người ngày càng mở rộng và sâu sắc hơn.

Thực tiễn là động lực của nhận thức

Hoạt động của con người không chỉ là nguồn gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên và XH. Nhận thức được vận dụng làm cho hoạt động thực tiễn mang lại lợi ích cho con người càng khích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để khái quát, nâng cao nhận thức. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho nhận thức của con người ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc thêm. Nhờ vậy, hoạt động của con người không bị hạn chế trong không gian và trong thời gian. Từ trong thực tiễn đã xuất hiện những nhu cầu, những nhiệm vụ cần phải giải quyết. Điều đó vạch ra phương hướng phát triển của nhận thức. Mặt khác, chính hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới để tổng kết những kinh nghiệm đã có hình thành nên những lý luận mới, những phát minh mới,... từ đó thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học cụ thể.

Thực tiễn đồng thời cũng tạo ra phương tiện, công cụ, dụng cụ ngày càng tinh vi, hoàn thiện hơn. Điều đó tạo ra những thuận lợi để con người đi sâu, tìm hiểu khám phá những bí mật của hiện thực bên ngoài.

Hoạt động thực tiễn cũng làm biến đổi chính bản thân con người theo hướng hoàn thiện hơn. Thông qua hoạt động thực tiễn các giác quan của con người ngày càng hoàn chỉnh hơn, nhanh hơn, nhạy hơn và qua đó làm tăng thêm sức thu nhận những thông tin từ bên ngoài ở con người.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức 

Mặc dù nhận thức cung cấp những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ yếu của nhận thức là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhấn và XH. Tự thân nhận thức không thể tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ làm biến đồi tự nhiên và XH theo mục đích của con người. Do vậy, nhận thức ở con người không mang mục đích tự thân, mà chính là vì sự hoàn thiện của con người, nâng cao năng lực hoạt động của con người, tức là nhận thức để phục vụ cho cuộc sống, cho hoạt động thực tiễn của chính con người. Kết quả của quá trình nhận thức phải mang lại chỉ đạo, hướng dẫn hành động thực tiễn của con ngừơi. Các khoa học lý luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi nó phục vụ cho cuộc sống nâng cao hiệu quả hành động thực tiễn của con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. 

Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

Quá trình nhận thức sẽ đưa đến kết quả và hình thành nên những tri thức mới và những tri thức đó đứng trước khả năng đúng, sai và gần đúng. Tiêu chí dùng để đánh giá các khả năng này là thực tiễn. Chỉ có những tri thức được thực tiễn kiểm nghiệm và khẳng định là phù hợp với hiện thực khách quan, nâng cao hiệu quả cho hoạt động con người thì nó mới trở thành chân lý. Tính chân lý của nhận thức chính là sự phù hợp của nhận thức với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn, nhận thức đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn thì tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. 

Tuy thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của nhận thức, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu nhận thức chỉ khái quát 1 giai đoạn nào đó, 1 bộ phận nào đó của thực tiễn thì nhận thức có thể xa rời thực tiễn. Do đó, chỉ có nhận thức nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.

Tuy xét đến cùng, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của nhận thức. Vì thực tiễn luôn vận động và phát triển, đồng thời, thực tiễn cũng rất phong phú và đa dạng, do đó, ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như tiêu chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị,… Nhưng các tiêu chuẩn đó vẫn phải trên nền tảng của thực tiễn. Chính vì vậy, chúng ta có thể nói khái quát, thực tiễn là tiêu chuần chân lý của nhận thức.

  1. Tính thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn 

Giữa hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có sự thống nhất với nhau; trong hoạt động nhận thức đã bao hàm cả hoạt động thực tiễn; trong hoạt động thực tiễn đã bao hàm hoạt động nhận thức. Do đó, sự phân biệt giữa hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức mang tính tương đối.

Hoạt động nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, trên cơ sở của thực tiễn, vì thực tiễn. Hoạt động thực tiễn nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, do đó phải thông qua thực tiễn để khái quát thành tri thức.

Quán triệt quan điểm thực tiễn nhưng không tuyệt đối hóa thực tiễn. Vì thực tiễn vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối của thực tiễn chính là thực tiễn luôn là tiêu chuẩn của chân lý, dù chân lý có thể suy lý từ logic hay từ giá trị. Nhưng thực tiễn cũng mang tính tương đối. Tính tương đối của chân lý chính là thực tiễn luôn vận động và phát triển. Trong quá trình đó, nếu thực tiễn ở dưới hình thức hiện thực khách quan thì chính bản thân quá trình này vừa tự hoàn thiện mình, vừa dần bộc lộ mình; mặt khác , bản thân thực tiễn của chủ thể nhận thức trong 1 giai đoạn cũng bị hạn chế bởi những điều kiện của chủ thể, của những điều kiện mà chủ thể bị quy định. Thêm nữa, thực tiễn của XH chưa đủ khả năng cung cấp những yếu tố, những điều kiện cho chủ thể nhận thức thực tiễn. Nếu thực tiễn là những hình thức hoạt động XH, hoạt động của tư duy thì cũng vậy. Những trạng thái thực tiễn này phụ thuộc chủ yếu vào những quan hệ, tác động lẫn nhau của con người trong những điều kiện biến đổi thường xuyên. Chính vì vậy, cần khắc phục tư tưởng coi chân lý đã được thực tiễn kiểm nghiệm là bất di bất dịch, không bám sát thực tiễn, điều chỉnh lý luận cho phù hợp với tính tương đối của thực tiễn. Phải biết vận dụng những tri thức phù hợp vào hoạt động thực tiễn để đem lại hiệu quả cao hơn. Hoạt động thực tiễn mà không có sự định hướng của lý luận sẽ mó mẫm, dễ đi đến thất bại.

Mọi tri thức đều được khái quát từ thực tiễn, nhưng bản thân thực tiễn luôn biến đổi, nếu chỉ dựa vào lý luận thuần túy, tri thức thuần túy có thể dẫn đến sai lầm trong hoạt động.

Trong quá trình hoạt động, phải luôn luôn kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa tri thức và thực tiễn. Không được tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa tri thức hay thực tiễn. Điều đó dễ dẫn đến sự cực đoan trong quá trình hoạt động. Tri thức càng đầy đủ, càng sâu sắc thì hoạt động thực tiễn càng hiệu quả. Hoạt động thực tiễn càng phong phú và đa dạng thì tri thức càng đầy đủ và sâu sắc hơn.

  • Tóm lại, trong mối quan hệ với nhận thức thì thực tiễn có vai trò to lớn, và mang ý nghĩa quyết định nó vừa là cơ sở cho việc hình thành nhận thức vừa thúc đẩy nhận thức phát triển là mục đích của nhận thức và đồng thời là tiêu chuẩn đánh giá kết quả của nhận thức.

  1. Ý nghĩa phương pháp luận

Trong hoạt động nhận thức, cần phải xây dựng và quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu để nhận thức về SVHT nào, cần xuất phát từ thực tiễn dựa trên cơ sở thực tiễn theo nhu cầu của thực tiễn đi sâu vào thực tiễn và coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, khái quát những kinh nghiệm của thực tiễn,.... Việc nghiên cứu lý luận phải được gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành.

Cần kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống lý luận từ thực tiễn và dùng thực tiễn để kiểm nghiệm, kiểm chứng lý luận kịp thời bổ sung điều chỉnh, bổ sung lý luận khi nó không phù hợp với thực tiễn .

Cần chống xu hướng quan liêu, giáo điều, xa rời thực tiễn. Đồng thời cũng cần chống khuynh hướng tuyệt đối hóa thực tiễn, xem nhẹ lý luận khoa học, rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm thực sự. 

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 4: Trình bày nội dung và ý nghĩa của quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX? Liên hệ sự vận dụng quy luật này trên đất nước ta? (Trang 123-132 giáo trình)

* Khái niệm:

- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất; quan hệ về mặt phân phối sản phẩm sản xuất.

- Lực lượng sản xuất: là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất nhất định.

*Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Điều đó được thể hiện:

- LLSX quyết định QHSX

+ LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong PTSX thể hiện:

-> Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động -> Muốn vậy, con người không ngừng cải tiến đổi mới công cụ lao động; đồng thời trình độ của người lao động cũng không ngừng nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu -> LLSX không ngừng phát triển.

-> Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX: Biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.

-> Tính chất của LLSX: Khi LLSX là công cụ thủ công, phân công lao động xã hội kém phát triển thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân; khi LLSX đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa.

+ Sự vận động, phát triển của LLSX làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó.

-> Một PTSX mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, sự phù hợp này thể hiện ở chỗ, tất cả các mặt của QHSX đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển, nghĩa là QHSX tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với TLSX -> Thúc đẩy LLSX phát triển.

-> Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX -> QHSX trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển -> Yêu cầu khách quan phải thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới, phù hợp trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển.

Tóm lại: LLSX là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất vật chất. Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất (nội dung) sớm muộn cũng kéo theo sự biến đổi trong quan hệ sản xuất (hình thức), do đó, LLSX nào thì QHSX ấy, LLSX biến đổi thì QHSX cũng biến đổi theo.

- Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX

+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó là điều kiện, là địa bàn trong đó có thể kết hợp tối ưu những yếu tố của LLSX làm cho năng suất và hiệu quả tăng lên, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

+ Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tức là khi các quan hệ sở hữu, tổ chức hay phân phối đã lỗi thời, hoặc “tiên tiến” một cách giả tạo thì nó sẽ gây cản trở cho việc phát huy những năng lực của LLSX, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.

* Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.

- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng này là đi từ sự thống nhất đến khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của LLSX với QHSX kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt đầu nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những QHSX hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của LLSX, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của QHSX với LLSX.

- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì tính chất biến đổi của LLSX và QHSX khác nhau: LLSX có xu hướng "động", còn QHSX thì lại có xu hướng "tĩnh" => Xu hướng động và tĩnh của hai phương diện này đều là khách quan.

  • Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở nước ta

Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, mỗi đất nước đều có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và sự phân bố dân cư không giống nhau dẫn đến QHSX và trình độ của LLSX ở mỗi vùng cũng khác nhau. Do tính đặc thù đó, khi QHSX ở một vùng, một trình độ phát triển nào đó phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ kéo theo sự phát triển về kinh tế nhanh chóng, nhưng nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, vì vậy QHSX và trình độ phát triển của LLSX có tác động lẫn nhau là hai mặt của quá trình phát triển kinh tế.

  • Vận dụng quy  luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX vào công cuộc đổi mới kinh tế nước ta thể hiện ở chỗ:

Quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tếp nhau của phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng nhất  thiết phải  tuần  tự  trải qua  tất cả các phương thức sản xuất mà loài người đã biết đến. Thực tế lịch sử của nhân loại cho thấy,  tuỳ  theo điều kiện  lịch sử cụ  thể, một số nước có  thể bỏ qua một hoặc một số phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất cao hơn. Đó chính là sự biểu hiện  của quy  luật  chung  trong điều kiện  cụ  thể  của   mỗi nước. Quy luật  chung  chi phối xu hướng vận động phát triển của tất cả các nước; còn hình thức bước đi cụ thể lại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.  

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, LLSX rất thấp. Bản thân đặc điểm quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản đã nói lên rằng, đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất – kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Đối với các nước đã qua chế độ tư bản hoặc  chủ nghĩa  tư bản phát  triển ở mức  trung bình  cũng không  thể  thiết  lập ngay lập tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời sống kinh tế. Nước ta, với nền kinh tế lạc  hậu,  điểm xuất phát  lại  thấp,  lại  càng  không  thể xây  dựng nhanh  chóng  chế  độ công hữu mà phải  trải qua một thời kì  lịch sử  lâu dài, qua nhiều nấc trung gian, quá độ. Chính vì không nhận  thức  rõ mối quan hệ biện chứng giữa LLSXvà QHSX mà trước đây có lúc chúng ta đã chủ quan, duy ý chí trong việc thiết lập chế độ công hữu. 

Điều đó làm ảnh hưởng đến sự phát triển LLSX, phát triển kinh tế. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, điều đó không có nghĩa là chúng ta chưa có cơ sở và không cần xây dựng chế độ công hữu ở trình độ và phạm  vi  nào đó  của  nền  kinh  tế. Dưới  sự  lãnh  đạo  của Đảng  của  giai  cấp  công nhân và sự quản  lí nhà nước của dân, do dân, vì dân, những cơ sở kinh tế công hữu được từng bước tạo ra. Điều đó là cần thiết, bởi lẽ nếu không có những cơ sở kinh tế này thì không có sức mạnh vật chất để điều  tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát  triển theo định hướng xã hội  chủ nghĩa, không  thể  thúc đẩy  sự  tăng  trưởng nhanh  và  lâu bền của nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là việc thiết lập chế độ công hữu phải hợp lí, phù hợp với  trình độ phát  triển của LLSX xã hội  trong  từng giai đoạn  lịch sử nhất định. 

Muốn thiết lập chế độ công hữu phải phát triển mạnh mẽ LLSX, phải xã hội hoá sản xuất trong thực tế. Do vậy không  thể chủ quan nôn nóng xoá bỏ nhanh các hình thức sở hữu khác, mà phải thiết lập từng bước QHSX xã hội chủ nghĩa từ thấp lên cao, phù hợp với trạng thái của LLSX. Đây chính là sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. 

Trong quá trình vận dụng quy luật đó, chúng ta còn có những hạn chế: ở nước ta sau hoà bình  lập  lại ở miền Bắc  (1954) và  cả nước  thống nhất (1975) chúng  ta đã tiến  lên  chủ nghĩa  xã  hội bỏ  qua  chế độ  tư  bản  chủ nghĩa. Vào buổi đầu do nhiều nguyên nhân khách quan  và  chủ quan,  chúng  ta đã xây dựng chủ nghĩa xã hội  theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện chiến tranh mô hình đó đã đóng vai trò  tích cực, nhưng  trong điều kiện hoà bình, mô hình đó dần bộc  lộ những hạn chế của nó và đã dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế – xã hội.  Trong những giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế của đất nước do những nhận  thức  rõ  về mối quan hệ biện chứng  giữa QHSX và LLSX, chúng  ta đã khuyến khích, vận động nông dân gia nhập vào hợp tác xã, mở rộng các nông trường quốc doanh, các nhà máy xí nghiệp  lớn nhưng trình độ của LLSX còn thấp kém.Với thực tế  đó đã đưa nền kinh tế không những đi xuống mà còn rơi vào tình trạng bế tắc hơn.  Do  chúng  ta  đưa  QHSX  lên mức  quá  cao, không  phù  hợp  với  trình  độ  của LLSX, vì thế chúng ta đã ra sức xây dựng LLSX bằng cách đưa nhiều máy móc vào cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình  thành, còn yếu nhằm xây dựng mô hình công - nông nghiệp  trên địa bàn cấp huyện mà không  tính đến  trình độ quản  lí  tổ chức, sử dụng của nông dân. 

Nền kinh tế nông nghiệp nước ta còn lạc hậu nhưng không vì thế mà chúng ta đẩy mạnh việc phát triển kinh tế với một độ quá nhanh mà chưa quan tâm đến thực tế của LLSX ở nưóc ta mà ngược lại ta chỉ cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế quốc doanh, công nghiệp nặng là mục tiêu lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay. Bên cạnh đó còn nhiều thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho sản  xuất  phát  triển,  nhưng  chúng  ta  đã  xoá  bỏ  tiểu  thương  trong  hệ  thống  thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa đủ khả năng thay thế, gây sự trì trệ trong lưu thông hàng hoá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của đất nước. 

Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

Qua các kì đại hội Đảng  toàn quốc, Đảng Cộng sản việt nam đã đề ra những phương hướng để phát triển nền kinh tế  nhưng trong quá trình thực hiện chúng ta đã gặp rất nhiều khó khăn và thách thức mà nguyên nhân là do chưa có đủ lực lượng và điều kiện cũng như chưa hiểu rõ về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. QHSX  và  LLSX  có  mối  quan  hệ  biện  chứng  với  nhau,  LLSX  quyết  định QHSX nhưng QHSX lại tác động trở lại LLSX.Vì vậy việc vận dụng quy luật này sao cho hợp lí với tình hình đất nước là một  vấn đề  quan trọng và cần được quan tâm. 

  • Thực  trạng nguồn  lực  của LLSX  ở nước  ta hiện  nay :

Để nhìn nhận đánh giá một đất nước người ta thường đánh giá thông qua LLSX ở đất nước ấy. Một nước phát triển là một nước có LLSX phát triển cao, vì thế trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa  thì việc phát  triển LLSX và xây dựng QHSX mới là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết đối với nước ta hiện nay. 

Nền kinh  tế nước  ta đi  lên  từ một nền nông nghiệp lạc hậu, LLSX ở  trình độ thấp kém, nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn gặp rất nhiều khó khăn. Nước ta có nguồn  lao động dồi dào do đó  là một nguồn  lực rất quan trọng của đất nước. Nhưng việc đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người dân, người lao động còn có phần hạn chế. 

Hiện nay LLSX đang là một vấn đề được quan  tâm của Đảng và nhà nước. Nước ta vẫn còn  tồn  tại  tình  trạng  thất nghiệp do  trình độ phát  triển của LLSX còn  thấp  chỉ phù hợp với  lao động giản đơn mang  tính chất  thủ công vì  thế không đáp ứng đựơc yêu cầu của quá  trình công nghiệp, hoá hiện đại hoá. Nguồn  lực kế cận của nước  ta hiện nay cũng đang là một vấn đề đáng quan tâm. Tỉ lệ sinh viên ra trường chưa tìm được việc làm đúng ngành nghề đào tạo còn cao, bên cạnh đó chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với các sinh viên giỏi còn chưa hợp  lí, do vậy dẫn đến tình trạng chảy máu chất  xám. Mặt  khác  việc  giáo  dục  và  đào  tạo  chưa  hợp  lí,  tỉ  lệ  sinh  viên  vào  các trường đại học cao hơn vào các  trường  trung học chuyên nghiệp và dạy nghề do đó thiếu hẳn một đội ngũ công nhân kĩ thuật viên lành nghề làm việc trong các nhà máy xí nghiệp.   

  • Phương hướng phát triển của LLSX.  

+ Nâng cao trình độ hiểu biết cho người dân, đặc biệt là người nông dân, tầng lớp lao động thủ công và nhiều tầng lớp lao động khác trong xã hội. 

+ Đầu tư phát triển các trung tâm dạy nghề để thu hút học viên, đào tạo cho họ có một ngành nghề ổn định, phù hợp với sản xuất. 

+ Đổi mới  phương  pháp học  tập  cho  học  sinh,  sinh viên,  không  chỉ    tiếp  thu kiến thức trên sách vở mà còn phải  tự học  tập tích  luỹ kiến  thức kinh nghiệm trong thực tế. 

  • Xây dựng QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội  chủ nghĩa. Xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều  thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của LLSX nước ta trong điều kiện hiên nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước và gắn phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực, thúc đẩy  lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong các thành phần kinh tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. 

Do đó phương hướng trước mắt và lâu dài của nhà nước ta là tiếp tục thực hiện chính sách này và khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân  trong nước khai  thác tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, đồng thời trong quá trình thực hiện chính sách này phải chủ động sáng tạo vận dụng quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX một cách hợp lí và có hiệu quả. 

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 5: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vần đề này? (Trang 132 – 139 giáo trình)

* Khái niệm: 

- Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.

- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. v.v. cùng với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể.v.v. được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

- Thứ nhất, tương ứng với một CSHT nhất định sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp, có tác dụng bảo vệ CSHT đó, điều đó có nghĩa là CSHT nào thì KTTT ấy.

- Thứ hai, những biến đổi trong CSHT tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong KTTT (cơ sở kinh tế thay đổi thì chính trị, tư tưởng, tinh thần của xã hội cũng thay đổi theo). 

+ Có yếu tố biến đổi nhanh như nhà nước, pháp luật… khi giai cấp mới lên nắm chính quyền -> tác động -> thay đổi -> bảo vệ CSHT mới.

+ Có yếu tố biến đổi chậm như đạo đức, phong tục, tập quán… 

- Thứ ba, tính chất mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn trong KTTT, sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội.

- Thứ tư, giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội, đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong KTTT, còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc.

Tóm lại: Sự biến đổi của CSHT dẫn đến sự biến đổi của KTTT là một quá trình hết sức phức tạp. Nguyên nhân của sự biến đổi đó xét cho cùng là do sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT và chính sự biến đổi của CSHT đến lượt nó mới làm cho KTTT biến đổi một cách căn bản.

b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

- CSHT quyết định đối với KTTT nhưng toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối và tác động trở lại CSHT của xã hội, sự tác động của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chức năng xã hội của KTTT là duy trì, bảo vệ và củng cố CSHT đã sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ CSHT và KTTT cũ.

- Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể thông qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó nhà nước là yếu tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới CSHT của xã hội.

- Sự tác động của các yếu tố thuộc KTTT có thể diễn ra theo nhiều xu hướng, thậm chí có xu hướng đối lập nhau => Phán ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai tầng khác nhau và đối lập nhau trong xã hội, có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại (duy trì chế độ xã hội hiện thời); có sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác. 

- Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT được biểu hiện theo hai xu hướng: Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu KTTT tác động ngược chiều, không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế

Ý nghĩa phương pháp luận:

Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở khoa học để xây dựng quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, thấy được sự tác động lẫn nhau giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ sở lý luận khoa học để Đảng ta xây dựng đường lối kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Đồng thời nghiên cứu vấn đề này cũng là cơ sở lý luận khoa học để chúng ta nhận thức và vận dụng đúng đường lối đổi mới kinh tế và chính trị của Đảng:

  • Khẳng định việc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN là một yêu cầu quan trọng, cấp bách có ý nghĩa quyết định.

  • Việc thường xuyên kiện toàn đổi mới kiến trúc thượng tầng XHCN, mà trước hết là hệ thống chính trị XHCN trên đất nước ta hiện nay cũng là một yêu cầu không thể xem nhẹ. Vì:

Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thực chất là quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Phép biện chứng giữa kinh tế và chính trị khẳng định kinh tế quyết định chínhh trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. 

Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, do đó phải thường xuyên kiện toàn đổi mới hệ thống chính trị XHCN trên đất nước ta cho phù hợp và thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần này. Đổi mới một cách đồng bộ với những bước đi thích hợp giữa kinh tế và chính trị, Đảng ta đã giành được nhiều thành tựu to lớn: CNXH được giữ vững, kinh tế phát triển, tiến bộ xã hội được biểu hiện một cách rõ rệt

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 6: Đấu tranh giai cấp là gì? Nguyên nhân của đấu tranh gia cấp ? Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp ? (Trang 152-160 giáo trình)

  • Khái niệm giai cấp : Theo Lênin, giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.

  1. Đấu tranh giai cấp

Là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.

  1. Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp

Là do trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị chiếm đoạt của cải về tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị; mâu thuẫn trên chỉ là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX.

  1. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp 

  • Đấu tranh giai cấp khi lên đến đỉnh cao tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, làm thay đổi phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay đổi hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao.

  • Là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, giúp cải tạo các giai cấp trong xã hội (giai cấp thống trị, giai cấp bị trị, giai cấp cách mạng).

Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hóa ngày càng sâu rộng của LLSX mâu thuẫn với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Mâu thuẫn giữa LLSX với QHSX tự nó không giải quyết được, mà phải thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị lật đổ giai cấp thống trị, sau đó mới xóa bỏ được QHSX cũ xây dựng QHSX mới cho phù hợp với trình độ mới của LLSX. Với ý nghĩa ấy đấu tranh giai cấp được coi là động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử.

Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội.

Vì vậy, đấu tranh giai cấp trở thành một động lực lớn củaa sự phát triển xã hội. Tất nhiên, đấu tranh giai cấp không phải là động lực duy nhất. Nhu cầu ngày càng tăng của con người, sự phát triển của khoa học và kỹ thuật, cả những nhân tố tư tưởng, đạo đức, v.v. đều là nhũng động lực phát triển của xã hội. Đấu tranh giai cấp là một động lực cơ bản của sự phát triển xã hội đặc trưng cho các xã hội có giai cấp đối kháng. Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản “là đòn bẩy vĩ đại của cuộc cách mạng xã hội hiện đại”.

Đấu tranh giai cấp chẳng những có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội phản động, kìm hãm xã hội phát triển mà còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng.

Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của mọi xã hội có giai cấp. Nhưng trong quy luật ấy có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể. Điều đó do kết cấu giai cấp của mỗi xã hội và do địa vị lịch sử của mỗi giai cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất quyết định.

Các đội tiên phong của giai cấp vô sản, trong khi đề ra đường lối chiến lược và sách lược cách mạng phải vận dụng quy luật đấu tranh giai cấp; phải xuất phát từ sự phân tích tình hình kinh tế, chính trị và xã hội của mình; phân tích kết cấu giai cấp và những mối quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội; phân tích mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp trong nước và đấu tranh giai cấp trên phạm vi toàn thế giới; đánh giá đúng đắn lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng; có như thế mới đưa cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản đến thắng lợi hoàn toàn.

Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.

Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.LLênin viết: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước được”.

Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh. Vì vậy, trong khi khẳng định rằng đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, C.Mác cũng chi rõ: bản thân nền chuyên chính vô sản này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 7: Trình bày nguồn gốc, bản chất, chức năng của nhà nước? Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử ? (Trang 162-171 giáo trình)

  1. Nguồn gốc ra đời của nhà nước

  • Xã hội loài người không phải khi nào cũng cần có nhà nước. Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại khi mâu thuẫn giai cấp phát triển tới mức không thể điều hòa được.

  • Lênin viết: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, lúc nào và chừng nào về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được". 

  1. Bản chất của nhà nước

Nhà nước mang bản chất giai cấp:

  • Nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế;

  • Nhà nước có chức năng giai cấp và chức năng xã hội.

  1. Các kiểu và các hình thức nhà nước

  • Các kiểu nhà nước:

Trong lịch sử xã hội có đối kháng giai cấp đã xuất hiện ba kiểu nhà nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản. Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới những hình thức khác nhau. 

Nhà nước chủ nô có nhà nước chủ nô dân chủ và nhà nước chủ nô quý tộc; 

Nhà nước phong kiến có nhà nước phong kiến quân chủ phân quyền và nhà nước quân chủ tập quyền.

Nhà nước tư bản có nhà nước cộng hòa và nhà nước dân chủ.

Như vậy, nhà nước có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù tồn tại dưới hình thức nào - độc tài hay dân chủ, quân chủ hay cộng hòa - thì về bản chất nhà nước vẫn là quyền lực chính trị của một giai cẩp.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 8: Cách mạng xã hội là gì ? Nguyên nhân của cách mạng xã hội ? Phân tích điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của một cuộc cách mạng xã hội ? (trang 172-177 giáo trình)

  1. Cách mạng xã hội là gì?

  • Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội; là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn.

  • Theo nghĩa hẹp: CMXH là sự lật đổ một chế độ chính trị lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.

  • Vấn đề cơ bản của CMXH chính là chính quyền.

  • Tiến hóa xã hội là hình thức phát triển xã hội, diễn ra một cách tuần tự, dần dần trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

  • Cải cách xã hội là sự thay đổi trên 1 hoặc 1 số lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi của một hình thái kinh tế xã hội. 

  • Đảo chính là thủ đoạn giành quyền lực nhà nước của một cá nhân hoặc một nhóm người trong nội bộ giai cấp cầm quyền nhằm thiết lập 1 chế độ xã hội có cùng bản chất.

  1. Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội

  • Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX: LLSX mang tính cách mạng đang đòi hỏi phải được phát triển với QHSX đã lỗi thời đang cản trở sự phát triển của LLSX.

  • Nguyên nhân trực tiếp đó là mâu thuẫn giai cấp, giữa một bên là giai cấp cách mạng và quần chúng lao động đại biểu cho sự phát triển LLSX mới với một bên là giai cấp thống trị nhưng đã lỗi thời, phản động đại biểu cho QHSX cũ đang cản trở sự phát triển LLSX.

  1. Điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội

  1. Điều kiện khách quan

Cách mạng là sự đảo lộn vĩ đại đời sống của các dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của hàng triệu quần chúng. Nó không thể nổ ra một cách ngẫu nhiên, hoặc theo đơn “đặt hàng” của chính đảng cách mạng. Muốn cho cách mạng nổ ra và thắng lợi phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.

Điều kiện khách quan chín muồi cho cách mạng nổ ra được gọi là tình thế cách mạng. 

Tình thế cách mạng là một cuộc khủng hoảng toàn quốc, lay chuyển cả giai cấp thống trị lẫn giai cấp bị trị. Biểu hiện của cuộc khủng hoảng đó là:

  • Giai cấp thống trị không thể cai trị theo lối cũ được nữa, nó phải dùng những hình thức cực đoan gây ra sự rối loạn trong toàn xã hội.

  • Giai cấp bị trị không muốn sống như cũ nữa, tính tích cực chính trị của họ được nâng cao, hoàn cảnh buộc họ phải có một hành động chính trị độc lập; 

  • Tầng lớp trung gian cũng không thể sống như cũ được nữa, họ bị đẩy đến chỗ phải thể hiện rõ thái độ của mình, thông thường họ ngã về phía các giai cấp cách mạng.

  1. Nhân tố chủ quan của cách mạng xã hội

Sự xuất hiện, hay qua đi của tình thế cách mạng là khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của giai cấp hay chính đảng nào.

Tình thế cách mạng là điều kiện phải có, nhưng chưa đủ để cách mạng nổ ra và giành được thắng lợi. Muốn cách mạng nổ ra và thắng lợi còn phải có sự chín muội của nhân tố chủ quan. Đó là giai cấp cách mạng có khả năng phát động, lãnh đạo quần chúng đứng lên lật đổ chế độ cũ, và tính tích cực cách mạng của quần chúng được nâng lên đến một mức độ nhất định. Mặt khác, nhân tố chủ quan cũng có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển chín muồi của tình thế cách mạng

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Câu 9: Ý thức xã hội là gì ? Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? (Trang 195-200 giáo trình)

*Khái niệm về YTXH: YTXH là sự phản ánh TTXH vào bộ não của con người. YTXH là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống… của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ TTXH trong những giai đoạn phát triển nhất định.

YTXH của người VN ta hiện nay là triết học Mac-LN, tư tưởng HCM, đây là những tư tưởng chủ đạo của đất nước ta trong định hướng xây dựng và phát triển đất nước; tư tưởng về tôn giáo, tình cảm, nhường cơm xẻ áo, tinh thần yêu nước căm thù giặc, tâm trạng vui mừng trước những thành tựu đạt được trong quá trình, lo lắng trước các vấn nạn của XH; bức xúc trước vấn nạn tham nhũng, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù,… thói quen hình thành từ nền SX nhỏ, từ nền SX nông nghiệp lúa nước đi sớm về trễ,…

-Bản chất của YTXH chính là sự phản ánh TTXH trong những giai đoạn lịch sử nhất định.

*Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, ý nghĩa phương pháp luận của từng mối quan hệ.

Như chúng ta đã biết, YTXH do tồn tại xã hội sinh ra, tuy nhiên YTXH tồn tại độc tập và sự tồn tại độc lập này chỉ ở mức độ tương đối (trong một phạm vi giới hạn nhất định) do một số các biểu hiện sau đây:

  • YTXH thường lạc hậu hơn so với TTXH

+ Nhiều hiện tượng trong đời sống VC của XH đã thay đổi hoặc thậm chí đã mất đi nhưng ý thức phản ánh của nó vẫn còn tồn tại.

+ Nhiều hiện tượng mới trong đời sống VC của XH đã xuất hiện nhưng ý thức XH không phản ánh kịp.

Những biểu hiểu hiện này là do:

   + YTXH là các phản ánh, còn TTXH là cái được phản ánh cho nên các phản ánh thường có sau, mất sau.

   + Sức mạnh của thói quen, truyền thống, tính bảo thủ của tâm lý XH.

+ Có những lực lượng XH lỗi thời, phản động tìm mọi cách duy trì những tàn dư của YTXH.

  • Tính vượt trước của những ý thức, tư tưởng khoa học

+ YTXH nếu phản ánh đúng quy luật vận động của tồn tại xã hội thì nó có thể phản ánh vượt tước tồn tại xã hội. Tức là, mặc dù vẫn bị quy định bởi TTXH, nhưng tính vượt trước của YTXH là tính vượt trước của sự phản ánh chứ không phải của bản thân YTXH, sự phản ánh này là sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn vì nó chỉ ra được khuynh hướng vận động khách quả của tồn tại xã hội.

+ Phản ánh vượt trước có cơ sở và phản ánh vượt trước không có cơ sở của YTXH so với TTXH. Có cơ sở, tức là sự phản ánh đúng được những mối liên hệ bản chất, tất nhiên và mang tính quy luật của TTXH (quy luât vận động và phát triển của TTXH). Ngược lại, YTXH không phản ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của TTXH, hơn nữa, nó lại bị chi phối bởi mong muốn chủ quan, duy ý chí thì sự phản ánh vượt trước ấy là không có cơ sở, dễ rơi vào vượt trước ảo tưởng.

  • Tính kế thừa trong sự phát triển của YTXH.

+ Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội cho thấy ý thức xã hội của một xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các xã hội trước đó. Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển nên không thể giải thích một tư tưởng nào đó chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có mà cần phải dựa vào cả những quan hệ kinh tế trước đó.

  • Sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH trong sự phát triển của chúng.

+ Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. YTXH có nhiều hình thái (7 hình thái: ý thức Ctrị, ý thức pháp quyền, YT tôn giáo, YT đạo đúc, YT triết học, YT thẩm mỹ, YT khoa học), giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau. Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối và là quy luật phát triển của ý thức XH.

Ví dụ: 

+ Ý thức triết học có thể tác động đến các hình thái khác xét về mặt TG quan và phương pháp luận. Và ngược lại các hình thái khác cũng tác động lại triết học bằng việc cung cấp các tri thức khoa học.

+ Ý thức đạo đức có thể tác động đến các hình thái XH khác.

  • Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.

+ YTXH có thể tác động trở lại TTXH vô cùng mạnh mẽ theo 2 xu hướng: hoặc thúc đẩy XH phát triển nhanh chóng hoặc kìm hãm sự phát triển của XH rất nặng nề.

Ví dụ:

+ Những tư tưởng khoa học tiến bộ, đường lối chính sách đúng đắn, truyền thống tốt đẹp sẽ thúc đẩy XH phát triển. Cụ thể là sự sự đổi mới của Đảng xuất phát từ thực tiễn, từ lợi ích của nhân dân, đảng đã thực hiện đổi mới bắt đầu từ khóan 100 làm cho Sx bung ra, tạo cơ sở cho Đảng thực hiện đường lối đổi mới tư duy, bắt đầu từ tư duy kinh tế tại Đại hội Đảng lần thứ VI và được Đảng tiếp tục cho đến nay.

+ Sự thúc đẩy hay kìm hãm đó phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:

  • YTXH phản ánh TTXH đúng hay sai, đúng sai đến mức độ nào.

  • Ý thức tư tưởng đó là của giai cấp nào, tiến bộ hay lỗi thời phản động.

  • + Mức độ thâm nhập của ý thức tư tưởng đó vào quần chúng nhân dân nhiều hay ít.

Như vậy, tính độc lập tương đối của ý thức XH chỉ ra bức tranh phức tạp của YTXH và của đời sống tinh thần của XH nói chung.

* Ý nghĩa phương pháp luận:

Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. 

Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Câu 10: Phân tích vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này? Liên hệ vận dụng vào công tác của bản thân?

Khái niệm: Quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội. QCND là cộng đồng người có cùng chung lợi ích căn bản thay đổi trong lịch sử, bao gồm tất cả thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay một đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định, trong đó chủ yếu là quần chúng lao động.

Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân bao gồm: 

Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần - đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân. 

Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với cộng đồng nhân dân. 

Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội


Vai trò của QCND trong lịch sử:


Cơ sở lý luận:


Triết học trước Mác-Lênin, về căn bản, tất cả các nhà tư tưởng trong lịch sử đều không nhận thức đúng vai trò sáng tạo lịch sử của QCND. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có nguyên nhân từ quan điểm duy tâm, tôn giáo và phương pháp siêu hình trong phân tích các vấn đề xã hội.


Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định QCND là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử, quyết định sự phát triển của lịch sử. Vai trò quyết định của QCND được thể hiện ở 3 nội dung sau: 

  • QCND là LLSX cơ bản của XH, là chủ thể SX ra mọi của cải vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của XH. Trong quá trình SX, yếu tố cơ bản của LLSX là người lao động. XH muốn tồn tại, trước hết phải có hoạt động sản xuất của quần chúng lao động. Hoạt động sản xuất của người lao động, của QCND làm thay đổi PTSX, thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển từ thấp đến cao. Khoa học kỹ thuật ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội, tuy nhiên nó chỉ phát huy được tác dụng thông qua hoạt động thực tiễn sản xuất của QCND. Xã hội phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc vào năng lực sản xuất của cải vật chất quần chúng nhân dân. (Ví dụ: Những năm qua, năng suất lao động của Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nếu năm 2011, năng suất lao động của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia lần lượt gấp năng suất lao động của Việt Nam 17,6 lần; 6,3 lần; 2,9 lần và 2,4 lần thì đến năm 2018 khoảng cách tương đối này giảm xuống tương ứng còn 13,7 lần; 5,3 lần; 2,7 lần và 2,2 lần.)

  •  QCND là động lực cơ bản của mọi cuộc CMXH. Lịch sử nhân loại đã chứng minh không một cuộc CMXH nào có được thành công nếu không xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của đông đảo QCND; Không có một sự chuyển biến của CMXH nào mà không là hoạt động của QCND cho nên CM là ngày hội, là sự nghiệp của QCND. Như vậy, những cuộc cách mạng và cải cách xã hội cần đến lực lượng quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những cuộc cách mạng và cải cách xã hội. Đó chính là biện chứng của quá trình phát triển xã hội. (Ví dụ: Trước khi CM tháng 8 thành công, ở Việt Nam đã có các cao trào CM 1930-1931; 1936-1939 nhưng đều thất bại do xác định sai lực lượng CM; xác định sai mẫu thuẫn cơ bản trong XH).

  • QCND là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị văn hoá tinh thần của XH. Cơ sở, nguồn gốc và động lực thúc đẩy nền văn hóa tinh thần là từ hoạt động thực tiễn của QCND. Những sáng tạo trong các lĩnh vực của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động thực tiễn của QCND chính là nguồn cảm hứng, là đề tài vô tận cho tất cả mọi sáng tạo tinh thần. Từ nhân dân, nảy sinh nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, những nhà hoạt động văn hóa đủ mọi tầm cỡ, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân. Quần chúng nhân dân là người thưởng thức, đánh giá, thẩm định, là người lưu truyền, chuyển tải, bảo vệ, gìn giữ mọi giá trị tinh thần.... 

Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lênin: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào".

Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử mỗi cá nhân tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo ý nghĩa ấy, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều "in dấu ấn" của nó vào quá trình sáng tạo lịch sử, mặc dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau. Thế nhưng để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất tạo ra những bước ngoạt trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội chính trị, kinh tế, khoa học. nghệ thuật... 

Lãnh tụ là khái niệm chỉ những người lãnh đạo phong trào chính trị tiến bộ của quần chúng nhân dân, giải quyết thắng lợi những nhiệm vụ lịch sử đặt ra, tạo nên những bước ngoặt trong quá trình phát triển của lịch sử, thúc đẩy lịch sử phát triển. Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với lịch sử bởi quần chúng nhân dân có vai trò quyết định lịch sử, nhưng vai trò đó chỉ có thể phát huy khi có sự tập hợp, tổ chức, dẫn dắt, lãnh đạo bởi vĩ nhân, lãnh tụ.

- Vai trò của lãnh tụ:

Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng như sau:

+ Một là, trong những điều kiện lịch sử cụ thể thì vĩ nhân, lãnh tụ có thể thúc đẩy nhanh hơn tiến trình phát triển của lịch sử, nhưng họ cũng có thể kìm hãm sự phát triển của xã hội khi tính tích cực và vai trò tiến bộ của họ đã không còn nữa.

Nếu lãnh tụ nắm bắt được những quy luật vận động phát triển của xã hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển.

Ngược lại, nếu không nắm bắt được những quy luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm hãm sự phát triển đối với xã hội, thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những quanh co phức tạp.

 + Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức, điều khiển và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển, hoạt động của tổ chức ấy.

+ Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Không có lãnh tụ cho mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với một thời đại nhất định. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần mãi mãi trong tình cảm và niềm tin của quần chúng nhân dân


- Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ: là mối quan hệ biện chứng

+ Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội lực để liên kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất về ý chí và hành động

+ sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

+ Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân thì không thể có lãnh tụ. Không có lãnh tụ thì phong trào của quần chúng nhân dân sự mất phương hướng.

II. Ý nghĩa phương pháp luận.:

Việc lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân là cơ sở để hình thành quan niệm duy vật về lịch sử trong việc giải thích về vai trò của con người đối với sự vận động, phát triển của lịch sử, chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo.... Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa học quan trọng trong việc nghiên cứu và nhận định lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của mỗi cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.

Lý luận về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận khoa học đề các đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là, sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng có thể nhằm tạo ra động lực to lớn trong sự nghiệp đưa cách mạng xã hội chủ nghĩa đi tới thẳng lợi cuối cùng.

- Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, tư đó xây dựng quan điểm quần chúng: tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh và khả năng to lớn của quần chúng, dựa vào quần chúng, phát huy nguồn sức mạnh tiềm tàng của quần chúng. Hiểu được quan điểm của Hồ Chủ tịch và Đảng ta: coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, người cán bộ là đầy tờ trung thành của nhân dân.

- Hiểu được vai trò to lớn của lãnh tụ, lựa chọn lãnh tụ có đủ tài đức để lãnh đạo phong trào. Tôn kính lãnh tụ, nhưng không được sùng bái cá nhân lãnh tụ. Tôn kính lãnh tụ là tình cảm đạo đức đúng đắn, xuất phát từ chỗ hiểu biết tài năng, phẩm chất và cống hiến của lãnh tụ. Trái lại, sùng bái cá nhân lãnh tụ xuất phát từ sự ngu dốt và mê tín, coi lãnh tụ là thần thánh, làm cho lãnh tụ xa rời quần chúng, phạm sai lầm sai lầm không khắc phục được.


Liên hệ vận dụng vào công tác bản thân:

  • Thực hiện nghiêm các chỉ thị, chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước, tại nơi làm việc và nơi cư trú, tham gia tích cực các phong trào xây dựng khu phố văn hoá, từ đó tạo thành một nếp sống tốt, lành mạnh phát huy tình làng nghĩa xóm, xây dựng được tổ dân phố, cụm dân cư, làng xã an toàn.

  • Thực hiện đoàn kết tương thân, tương ái, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau tại cơ quan đoàn thể nơi công tác và trong cộng đồng dân cư.

Phối hợp với phong trào học sinh, sinh viên của nhà trường để lồng ghép phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các phong trào khác của Đoàn thanh niên và các phong trào của học sinh trong nhà trường như: “Phòng ngừa tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên”; phong trào “Phòng chống ma tuý trong học đường”, phong trào Mùa hè xanh, phong trào đảm bảo vệ sinh môi trường, Chấp hành luật lệ giao thông v.v… Đồng thời, tham gia xây dựng các tiêu chuẩn để đánh giá sự hoạt động, tích cực hoặc thiếu tích cực của từng sinh viên trong các hoạt động phục vụ cộng đồng.