Câu 1: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Liên hệ nền sản xuất hàng hóa tại Việt Nam. (Chữ Xanh được bổ sung tại mục 3.2 của bài 12 trang 220; Bài 13, Trang 226).
Câu 2. Hai thuộc tính của hàng hóa. Liên hệ hàng hóa sản xuất ở Việt. Bài 12, trang 211-214
Câu 3: Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam? (Bài 12, trang 221-224)
Câu 4. Mâu thuẫn công thức chung và hàng hóa sức lao động?
Bài 13, trang 226-228
Câu 5. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh, ý nghĩa của việc nghiên cứu?
Bài 13, trang 232-236.
Câu 6. Quy luật chung của lích lũy tư bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Bài 13, trang 236-239
Câu 7. Lợi nhuận và lợi nhuận bình quân trong chủ nghĩa tư bản.
Bài 13, tr 241-246
Câu 8. Nguyên nhân hình thành độc quyền trong CNTB. Những biểu hiện mới của độc quyền trong CNTB ngày nay. Nguyên nhân hình thành độc quyền trong CNTB (Bài 14, trang 260-263).
Câu 9 : Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. (Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN).
Câu 10 : Sự cần thiết phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
Câu 11. Vận dụng của Đảng ta từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng HCM về phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trình độ phát triển kinh tế còn lạc hậu. (Phương hướng nhiệm vụ, giải pháp: trang 125, 127: Văn kiện tập 2), Bài 17, Mục 1, trang 34
Câu 12. Vận dụng của Đảng ta từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Leennin, tư tưởng HCM về kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên CNXH Bài 17, Mục 3, trang 361-371 (Nhóm Đã BS đủ toàn bộ nội dung từ sách vào)
Câu 13. Lý giải công nghiệp hóa- hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Câu 14. Hãy phân tích và lấy dẫn chứng minh họa về đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay
Câu 15. Bằng nhận thức lý luận và thực tiễn, hãy làm rõ các vấn đề liên quan đến chế độ (loại hình) sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
Câu 16. Cho ví dụ về quá trình sản xuất giá trị thặng dư và tính tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản cố định, tư bản lưu động (dựa trên các dữ liệu nêu trong ví dụ). Bài 13, Trang 228
Câu 1: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Liên hệ nền sản xuất hàng hóa tại Việt Nam. (Chữ Xanh được bổ sung tại mục 3.2 của bài 12 trang 220; Bài 13, Trang 226)
Câu 1: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa. Liên hệ nền sản xuất hàng hóa tại Việt Nam. (Chữ Xanh được bổ sung tại mục 3.2 của bài 12 trang 220; Bài 13, Trang 226)
Khái niệm sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức sản xuất, mà trong đó sản phẩm làm ra không phải đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản tiếp ra nó mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
SXHH có những ưu thế hơn hẳn so với sản xuất tự cung, tự cấp, biểu hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá sản xuất, do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở cũng như của từng vùng, từng địa phương. Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá mở rộng giữa các quốc gia thì nó còn khai thác được lợi thế của mỗi quốc gia.
Thứ hai, trong nền sản xuất hàng hoá, quy mô, tính chất tổ chức sản xuất không bị giới hạn mà nó được mở rộng, xã hội hoá ngày càng cao dựa trên cơ sở ngày càng tăng nhu cầu và nguồn lực xã hội. Điều đó tạo điều kiện ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba, trong nền sản xuất hàng hoá, sự tác động của những quy luật vốn có của sản xuất và trao đổi hàng hoá như quy luật giá trị, cung – cầu, cạnh tranh, v.v… buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thứ tư, sản xuất hàng hoá phát triển trở thành một trong những tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho mọi người dân.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, sản xuất hàng hoá cũng có những mặt trái như: phân hoá những người sản xuất thành giàu nghèo, nguy cơ khủng hoảng kinh tế, huỷ hoại mội trường sinh thái,… Thực tế 35 năm đổi mới ở nước ta đã chứng minh cho ưu thế nổi bật của sản xuất hàng hoá, đồng thời cũng bộ lộ mặt trái, thách thức cần khắc phục.
Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá
Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã hội vào các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Mỗi người, mỗi cơ sở chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu cuộc sống đòi hỏi họ phải tiêu dùng nhiều loại sản phẩm khác nhau, do đó hình thành nhu cầu trao đổi sản phẩm với nhau.
Nhờ có phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất mà năng suất lao động tăng lên, làm ra nhiều sản phẩm để trao đổi và tiêu dùng. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản xuất khác nhau.
Sự tách biệt này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử trong quan hệ kinh tế giữa các bộ tộc, về sau biểu hiện rõ nét thông qua quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sau này, do sự đa dạng về quan hệ sở hữu hoặc sự tách biệt tương đối giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất quy định. Do đó, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc chi phối của chủ thể nhất định, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Qua đây, cơ sở khách quan của sự hình thành và phát triển mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay được làm rõ. Muốn đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường ở một địa bàn, ngành cần thúc đẩy phân công lao động thông qua hướng nghiệp, đào tạo và tạo quyền tự chủ về quyền sở hữu,, sử dụng các yếu tố sản xuất.
Liên hệ nền sản xuất hàng hóa tại Việt Nam (chữ đỏ là trích dẫn tài liệu và bổ sung)
Nền sản xuất hàng hóa tại Việt Nam có thể xét theo hai giai đoạn:
- Giai đoạn trước năm 1986: Ở Việt Nam có nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực sản xuất hàng hóa. Như vậy, ở giai đoạn này ở Việt Nam có điều kiện thứ nhất - có sự phân công lao động xã hội để tạo điều kiện cho nền sản xuất hàng hóa hình thành và tồn tại. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chỉ tồn tại nên kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trong nền kinh tế này, chỉ tồn tại những khu vực kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Như vậy, có thể nói, sản xuất hàng hóa không có đủ điều kiện để hình thành và phát triển ở Việt Nam trước năm 1986.
- Giai đoạn sau năm 1986: Ở Việt Nam có đầy đủ 2 điều kiện để sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại. Ở giai đoạn này, sự phân công lao động xã hội đã phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, xuất hiện nhiều lĩnh vực, phân chia các ngành nghề, lĩnh vực ngày càng sâu sắc, với các nhóm ngành chính là Công nghiệp, Nông nghiệp, Dịch vụ và Xây dựng. Bên cạnh đó, cho đến ngày nay, ở Việt Nam tồn tại nhiều nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế như kinh tế tập thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; giữa các thành phần kinh tế, giữa các loại doanh nghiệp có sự độc lập tương đối, quan hệ giữa chúng là quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Do đó sản xuất hàng hóa có điều kiện phát triển ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
Thực trạng nền sản xuất hàng hóa tại Việt Nam
Hiện nay, sau đổi mới và nhiều lần thực hiện các Nghị quyết trung ương đảng qua các giai đoạn, ở Việt Nam:
Tình hình kinh tế vĩ mô: (Lấy từ Văn kiện ĐH XIII, tập 2, tr8-16 các đề mục từ 1.1-1.7)
1. Kinh tế tăng trưởng từng bước vững chắc và ngày càng được cải thiện, quy mô kinh tế ngày càng mở rộng, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm.
2. Giá cả hàng hoá tương đối ổn định, lạm phát hằng năm được kiểm soát thấp hơn mục tiêu đề ra.
3. Chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thị trường ngoại hối và tỷ giá đi vào ổn định, lãi suất giảm dần.
4. Cơ cấu thu chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỉ trọng thu nội địa, các nhiệm vụ chi được thực hiện theo hướng tăng dần tỉ lệ chi đầu tư phát triển, giảm dần chi thường xuyên, bảo đảm các mục tiêu về bội chi và nợ công.
5. Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng lên, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, đạt mức kỷ lục và hiệu quả sử dụng dần được nâng cao.
6. Cán cân xuất, nhập khẩu hàng hoá được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt sang thặng dư, cơ cấu xuất, nhập khẩu chuyển dịch tích cực, bền vững hơn.
7. Thương mại trong nước tăng trưởng nhanh, kết cấu hạ tầng thương mại phát triển nhanh chóng, nhất là các hình thức bán lẻ hiện đại
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh: (Lấy từ Văn kiện ĐH XIII, tập 2, tr17-30 các đề mục từ 2.1-2.5)
1. Mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt.
2. Cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế được thực hiện quyết liệt và đạt nhiều kết quả tích cực.
3. Cơ cấu lại các ngành kinh tế đi vào thực chất, tiếp tục chuyển dịch tích cực và đúng hướng, tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao tăng lên (Viết thêm cụ thể hơn cho từng ngành: Công nghiệp, Nông nghiệp, Dịch vụ và Xây dựng tr 21-25)
4. Phát triển kinh tế vùng theo hướng tăng cường liên kết, kết nối vùng, các tiểu vùng; tốc độ đô thị hoá tăng nhanh, bước đầu gắn kết với công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nông thôn.
5. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện mạnh mẽ, doanh nghiệp thành lập mới tăng cao cả về số lượng và số vốn đăng ký.
Thực hiện các đột phá chiến lược: (Lấy từ Văn kiện ĐH XIII, tập 2, tr31-40 các đề mục từ 3.1-3.3)
1. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập.
2. Quy mô nguồn nhân lực tăng lên trong tất cả các ngành, lĩnh vực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các ngành, lĩnh vực đột phá; các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia bắt đầu hình thành.
Hạn chế, yếu kém Lấy từ Văn kiện ĐH XIII, tập 2, tr61-30 các đề mục từ 1.1-1.3, các ý chính của các gạch đàu dòng)
1.1. Về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm đề ra, khoảng cách so với các nước trong khu vực còn lớn; nền tảng kinh tế vĩ mô, khả năng chống chịu của nền kinh tế có thời điểm chưa thật vững chắc; năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế còn hạn chế. Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm. Trong đó:
- Phát triển nông nghiệp vẫn còn những yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc.
- Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thiếu tính bền vững; chưa tạo ra được ngành công nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh cao, chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt.
- Chất lượng dịch vụ vẫn còn thấp.
- Phát triển ngành xây dựng chưa tương xứng với tiềm năng.
Sắp xếp lại, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn chậm tiến độ, chỉ mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng; hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực được giao; quản trị của một số doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém.
Cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm đầu tư công chưa đáp ứng yêu cầu. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm, tỉ lệ giải ngân ở một số bộ, ngành và địa phương còn rất thấp.
Công tác đổi mới hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập chưa đáp ứng yêu cầu.
Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Liên kết phát triển vùng còn lỏng lẻo.
Thu ngân sách nhà nước chưa bền vững, còn dựa vào các khoản thu từ vốn và thu từ đất đai có tính chất một lần, vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương chưa được phát huy.
Cơ chế phân cấp quản lý kinh tế, quản lý ngân sách nhà nước và đầu tư được đẩy mạnh nhưng trong thực hiện còn thiếu đồng bộ, thiếu các cơ chế giám sát hiệu quả.
1.2. Về thực hiện các đột phá chiến lược
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa đồng bộ, đầy đủ để bảo đảm thị trường vận hành thông suốt, hiệu quả. Một số thị trường chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhất là thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học, công nghệ. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, thiếu chặt chẽ, chưa ổn định. Vẫn còn các điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, ban hành giấy phép con trái quy định. Thiếu cơ chế, chính sách thí điểm các mô hình kinh doanh mới, mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả.
1.3. Các vấn đề xã hội, môi trường
Phân hóa giàu nghèo, đạo đức lối sống xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, an toàn xã hội còn một số hạn chế như an toàn vệ sinh thực phẩm, an toàn thuốc chữa bệnh, hiện tượng hàng giả hàng nhái còn tràn lan,…
Hủy hoại môi trường sinh thái: Khai thác tài nguyên thiếu bền vững, hiệu quả quản lý, sử dụng chưa cao, chưa theo nguyên tắc thị trường, vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, các nhà máy sản xuất công nghiệp gia tăng đáng báo động. Việc quản lý và xử lý chất thải rắn đô thị còn hạn chế, môi trường nước ở một số đô thị bị ô nhiễm. Chất lượng không khí ở các đô thị lớn có dấu hiệu suy giảm.\
Các giải pháp:
Một là, bảo đảm chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hoà bình, tạo thuận lợi cho phát triển đất nước.
Hai là, giải quyết tốt các mối quan hệ giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô trong phát triển kinh tế - xã hội; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế... Phải kịp thời đổi mới tư duy và hành động, thực hiện tốt công tác dự báo, bảo đảm đánh giá đúng, đầy đủ, kịp thời, chủ động thích ứng với những biến động khó lường của thế giới; phát huy tối đa và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, trong đó nội lực là quyết định.
Ba là, thể chế pháp luật phải được xây dựng cơ bản đầy đủ, đồng bộ với tư duy mới, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả; cải cách bộ máy chính quyền các cấp, xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động là nền tảng. Coi trọng tính cân đối, hiệu quả trong tất cả các khâu huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Phải coi trọng đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội.
Bốn là, lấy con người là trung tâm của phát triển và được chia sẻ những thành quả của quá trình phát triển kinh tế. Phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát vọng phát triển và sức mạnh của nhân dân. Thực tế qua thời gian phòng, chống đại dịch Covid-19 và khắc phục hậu quả thiên tai, muốn thành công phải khơi dậy được tinh thần đoàn kết, nhân ái của nhân dân cả nước, cộng đồng doanh nghiệp, cùng chung tay hành động, bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân, an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân và các giá trị văn hoá dân tộc.
Năm là, xác định giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là nền tảng quan trọng và là động lực chủ yếu trong phát triển đất nước để bắt kịp sự phát triển của khu vực và thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu.
Kết luận:………
Câu 2. Hai thuộc tính của hàng hóa. Liên hệ hàng hóa sản xuất ở Việt Nam.
Bài 12, trang 211-214
Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.
Có nhiều cách phân loại hàng hóa, như: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi vật thể; hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa phục vụ sản xuất, …
Ví dụ:
+ Hàng hoá vật thể (hàng hóa hữu hình): bàn ghế, quần áo…
+ Hàng hoá phi vật thể (hàng hóa vô hình): các dịch vụ, ví dụ như dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, dích vụ vận tải, …
Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
- Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hóa có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.
Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó (tính có ích đó) làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng của hàng hoá được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học – công nghệ và của lực lượng sản xuất nói chung. Xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú.
Giá trị sử dụng của hàng hoá không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp ra nó mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là vật mang giá trị trao đổi.
- Giá trị
Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ về số lượng, là tỉ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng khác nhau. Ví dụ: 1 m vải = 5 kg thóc
Để trao đổi với nhau, trước hết hàng hoá phải có giá trị sử dụng khác nhau, đồng thời, có thể trao đổi được với nhau vì giữa chúng tồn tại điểm chung: đều là sản phẩm của lao động, đều được kết tinh bởi lao động.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hóa. Chất của giá trị là lao động. Lượng của giá trị là số lượng lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hoá. Giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Lao động cụ thể:
Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Những đặc điểm riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của nguời thợ xây và lao động của người trồng lúa là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ xây thì xây nên ngôi nhà để ở, còn lao động của người trồng lúa thì tao ra thóc để ăn, ... Như vậy, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá.
Khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất càng phát triển, càng có nhiều hình thức cụ thể của lao động, do đó xã hội càng sản xuất ra nhiều chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng hơn. Năng suất lao động càng tăng, trình độ khoa học, công nghệ càng hiện đại thì số lượng hàng hoá sản xuất ra càng nhiều với chất lượng ngày càng tốt hơn.
+ Lao động trừu tượng
Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó và quy về một thể chung đồng nhất, đó chính là sự tiêu phí sức lao động nói chung (cả thể lực và trí lực) của người sản xuất hàng hoá.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Giá trị hàng hóa chính là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Nhờ lao động trừu tượng mà ta tìm thấy sự đồng nhất giữa những người sản xuất, do đó thấy được cơ sở của quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa. Lao động trừu tượng là cơ sở để người sản xuất hàng hóa trao đổi sản phẩm với nhau.
Hai tính chất của hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng thống nhất và mâu thuẫn với nhau.
Vừa thống nhất: Hai thuộc tính này cùng tồn tại trong một hàng hóa. Nếu một vật có giá trị sử dụng (nghĩa là có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định của con người, xã hội) nhưng không có giá trị (nghĩa là không do lao động tạo ra, không có sự kết tinh của lao động) như không khí thì thiên nhiên sẽ không tồn tại một hàng hóa. Ngược lại, một vật có giá trị (tức là lao động được kết tinh) nhưng không có giá trị sử dụng (tức là không thể thỏa mãn bất kỳ nhu cầu nào của con người, xã hội) thì không trở thành hàng hóa.
Vừa mâu thuẫn: Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng, hàng hóa có chất lượng khác nhau (quần áo, sắt thép, gạo, v.v.). Nhưng ngược lại, về mặt giá trị, hàng hóa đều giống nhau về chất, tất cả “chỉ sự kết tinh đồng nhất của lao động”, tức là mọi sự kết tinh của lao động, hay lao động vật chất hóa (quần áo, sắt thép, gạo… đều do lao động tạo ra), kết tinh trong đó. Thứ hai, quá trình hiện thực hóa giá trị và giá trị sử dụng là khác nhau cả về không gian và thời gian.
Giá trị được lấy trong phạm vi lưu thông và trước khi thực hiện.
Giá trị sử dụng được hiện thực hóa muộn hơn trong lĩnh vực tiêu dùng.
Người sản xuất quan tâm đến giá trị nhưng muốn đạt được mục tiêu giá trị thì phải chú ý đến giá trị sử dụng, trong khi người tiêu dùng lại quan tâm đến giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả cho người sản xuất ra nó. Nếu không thực hiện thì giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị thị trường cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.
Như vậy, hàng hóa là loại hàng hóa phổ biến trên thị trường hiện nay nên việc nắm rõ tính chất, bản chất cơ bản của hàng hóa là nội dung quan trọng, quyết định tính hiệu quả của quá trình trao đổi nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa.
Liên hệ hàng hóa sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng
Sau giải phóng, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế tự cung tự cấp, hàng hóa sản xuất vừa ít về số lượng, vừa kém về chất lượng, mẫu mã ít. Sau năm 1986 đến nay, kinh tế nước ta chuyển đổi thành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hàng hóa sản xuất được cải thiện về nhiều mặt:
Số lượng: Đáp ứng được nhu cầu trong nước và có hàng hóa dư để xuất khẩu
Chất lượng: ngày càng tốt hơn
Mẫu mã, tính năng: ngày càng bắt mắt, đa dạng, …
Hao phí lao động: ngày càng giảm.
Tuy nhiên, hàng hóa sản xuất ở Việt Nam chưa cạnh tranh nổi với hàng hóa nước ngoài vì các nguyên nhân sau:
Nước ta đã đầu tư vào khoa học công nghệ và nâng cao tay nghề cho người lao động. Song khoa học công nghệ ở nước ta vẫn còn lạc hậu, chưa bắt kịp trình độ thế giới, trình độ tay nghề người lao động còn kém.
Nhà nước chưa có các chính sách phù hợp để bảo hộ và thúc đẩy phát triển cho người sản xuất trong nước. Ví dụ như lĩnh vực nông nghiệp, nhà nước chưa có chính sách đầu vào đầu ra cho người nông dân, dẫn đến vòng luẩn quẩn được mùa mất giá, mất mùa được giá.
Nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam có nhiều ưu điểm để nâng cao giá trị của hàng hóa. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn không ít những hạn chế làm cho sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn chưa có trên thị trường trong nước và quốc tế.
Ưu điểm:
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ. Người lao động cần cù, sáng tạo, có kinh nghiệm sản xuất phong phú gắn liền với truyền thống dân tộc được tích lũy qua nhiều thế hệ. Giá nhân công ở nước ta rẻ, làm cho giá thành hàng hóa sản xuất tại Việt Nam rẻ hơn hàng hóa sản xuất ở các nước khác.
Nguyên vật liệu sản xuất hàng hóa rẻ, dồi dào nhất là nguyên liệu cho các ngành sản xuất thực phẩm, vật liệu xây dựng,… Như vậy, nếu biết tận dụng sẽ tiết kiệm được chi phí mua nguyên liệu. Giảm chi phí sản xuất sẽ làm giảm giá cả của hàng hóa, từ đó làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa.
Nhược điểm:
Nguồn nhân lực của nước ta tuy dồi dào nhưng chất lượng thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong công nghiệp còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp đều phải tự đào tạo nghề cho công nhân. Công nhân không lành nghề dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không cao, sản phẩm làm ra sẽ không nhiều trong cùng một đơn vị thời gian.
Tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Phần lớn các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với các nước trên thế giới, 80-90% công nghiệp nước ta đang sử dụng là công nghệ nhập khẩu, 50% máy móc, dây chuyền nhập khẩu là đồ tân trang. Sự lạc hậu về công nghệ, kỹ thuật sẽ tạo ra chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định.
Sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, điều đó làm giảm đi chất lượng của sản phẩm.
Chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất. Ngay cả các sản phẩm là thế mạnh của nước ta thì vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu như dệt may, giày da, thực phẩm,… Nhiều sản phẩm có giá thành không ổn định là do phụ thuộc vào tính bấp bênh của nguồn nguyên liệu.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay, để tăng khả năng cạnh tranh bình đẳng trong môi trường tự do hóa thương mại thế giới thì đòi hỏi các ngành sản xuất phải:
Đẩy mạnh phân công lao động để phát triển kinh tế hàng hóa, đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của xã hội.
Phải coi trọng hai thuộc tính của hàng hóa để không ngừng cải tiến mẫu mã, tạo ra hàng hóa phong phú đa dạng cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Để tạo động lực cho sự phát triển sản xuất kinh doanh, buộc các nhà sản xuất phải chủ động, sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức quản lý, áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt đẹp hơn, giá cả ổn định, có thể hạ giá thành để giành ưu thế trên thị trường.
Phải vận dụng hai thuộc tính hàng hóa bằng các quy định về kinh tế, quy định nhà sản xuất sao cho phù hợp trên cơ sở khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra: Phần đấu để nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Câu 3: Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam? (Bài 12, trang 221-224)
Quy luật giá trị:
1. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở đâu có trao đổi, sản xuất hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt của mình nhỏ hơn hoặc bằng với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, thì mới đạt được lợi thế trong cạnh tranh.
Trong trao đổi, thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
Trong trao đổi hàng hóa với nhau, hai bên được lợi về giá trị sử dụng còn lượng giá trị là bằng nhau.
Hàng hóa được trao đổi trực tiếp với nhau theo một tỷ lệ nào đó có nghĩa là chúng kết tinh một lượng lao động bằng nhau. Khi có tiền xuất hiện để mua bán thì giá cả hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó.
2. Cơ chế biểu hiện của quy luật giá trị
Quy luật giá trị hoạt động được thể hiện ở sự biến đổi lên, xuống của giá cả xoay quanh gía trị dưới tác động của quan hệ cung cầu về hàng hoá trên thị trường. Sự biến đổi giá cả một cách tự phát, tự do là sự phản ánh hoạt động của quy luật giá trị.
Nếu sức mua của đồng tiền không thay đổi, không kể đến điều tiết của Nhà nước và độc quyền thì xảy ra ba trường hợp:
Khi cung = cầu, giá cả = giá trị
Khi cung > cầu, giá cả < giá trị
Khi cung < cầu, giá cả > giá trị
Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm nên “vẻ đẹp sinh động của thị trường”, tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
Xét tổng thể, tổng giá cả luôn bằng tổng giá trị.
3. Chức năng, tác dụng của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
Quy luật giá trị tự động điều tiết sản xuất thể hiện ở chỗ thu hút vốn (tư liệu sản xuất và sức lao động) vào các ngành sản xuất khác nhau ( theo sự biến động cung, cầu, giá cả) tạo nên cơ cấu kinh tế hiệu quả hơn và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tác động điều tiết lưu thông của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ, thu hút hàng hoá tự nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Do đó, góp phần làm cho hàng hoá giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
- Khuyến khích tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao năng suất lao động
Người sản xuất có lãi hay không là do giải được bài toán hao phí lao động của mình phải thấp hơn hoặc bằng với hao phí lao động xã hội. Muốn vậy, những người sản xuất hàng hoá phải cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm, tăng năng suất lao động, hạ ci phí sản xuất. Quá trình này diễn ra liên tục sẽ thúc đẩy cho lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
- Phân hoá những người sản xuất hàng hoá thành giàu – nghèo
Những chủ thể sản xuất hàng hoá có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì có thể thắng thế trong cạnh tranh, họ sẽ giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh trở thành chủ thể giàu có hơn, và có thể sử dụng được nhiều hơn lao động làm thuê.
Ngược lại, những chủ thể sản xuất hàng hoá có mức hao phí lao động cá biệt cao hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, phá sản.
Các tác động nhiều mặt của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất hàng hoá thực sự là khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Cho ví dụ: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: Nông nghiệp- người nông dân chuyển đất lúa thành đất nuôi tôm: Tư liệu sản xuất và sức lao động di chuyển, lúa giảm, tôm tăng 🡪 điều tiết sx. Di chuyển lúa tôm đến TP. HCM. 🡪 điều tiết lưu thông. Sử dụng máy móc thiết bị khi nuôi tôm 🡪 nâng cao năng suất lao động, người thành công mở rộng sx, người thất bại, thu hẹp sản xuất, phá sản 🡪 biểu hiện tác động 3
Ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
Khẳng định nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa; trong khi đó quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hóa. Như vậy, quy luật giá trị có tồn tại trong nền kinh tế thị trường VN.
Tác động vào nền KTTT định hướng XHCN: Vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực.
Tác động tích cực:
Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, các chủ thể tham gia trên thị trường luôn cạnh tranh với nhau và sự cạnh tranh đó là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, động lực vươn lên làm giàu, bởi nó đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh; hợp lý hóa quá trình sản xuất; tìm kiếm, khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào; kích thích việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa và giảm giá thành sản phẩm.
Các chủ thể kinh tế được tự chủ sản xuất, kinh doanh đã cung cấp cho thị trường một khối lượng hàng hóa phù hợp, đa dạng về mẫu mã, chủng loại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. Quy luật giá trị cũng tạo ra sự tự điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng phù hợp với nhu cầu của thị trường và khai thác được lợi thế so sánh. Đó cũng là một trong những cơ sở để thực hiện phân công lao động xã hội. Từ đó, nguồn lực được phân bổ hợp lý; lực lượng sản xuất được khai thác hợp lý, hiệu quả, thúc đẩy nâng cao trình độ nhanh chóng.
Tác động tiêu cực:
Với động cơ chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà các chủ thể kinh tế có thể dùng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường như: gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất hàng giả hàng nhái, … làm phương hại các đối thủ cạnh tranh, đến người tiêu dùng. Đồng thời, động cơ chạy theo lợi nhuận dễ dẫn đến việc khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây tổn hại đến môi trường.
Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường dưới tác động của quy luật giá trị sẽ có sự phân hóa các chủ thể kinh tế trong xã hội thành người giàu, người nghèo và sự phân hóa giàu-nghèo cũng có thể làm suy thoái đạo đức, lối sống; trật tự xã hội bị đe dọa.
Tóm lại, quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và hoạt động của quy luật này gắn liền với sản xuất và lưu thông hàng hóa. Việc vận dụng quy luật giá trị vào phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ý nghĩa vô cùng to lớn, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển theo kịp trình độ các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế cần có những giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của quy luật giá trị tới nền kinh tế, giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Câu 4. Mâu thuẫn công thức chung và hàng hóa sức lao động?
Bài 13, trang 226-228
Công thức chung của tư bản
- Tiền là sản phẩm của lưu thông hàng hóa, đồng thời là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản.
Công thức lưu thông hàng hóa giản đơn : H - T - H
Công thức chung của tư bản là : T - H - T'.
Điểm giống nhau của hai công thức lưu thông nói trên là đều cấu thành bởi hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.
Điểm khác nhau giữa hai công thức đó là: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng hành vi bán (H - T) và kết thúc bằng hành vi mua (T - H); điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng. Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T - H) và kết thúc bằng hành vi bán (H - T’); tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng vai trò trung gian...Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn. Tư bản vận động theo công thức T-H-T’, trong đó T’ = T + ∆T; ∆T là số tiền trội hơn được gọi là giá trị thặng dư và ký hiệu bằng m.
Còn số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản. Như vậy, tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Công thức trên được gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản, dù là tư bản công nghiệp, thương nghiệp, cho vay,… đều vận động theo công thức này.
Khi vận động với tư cách là tư bản thì tiền được ứng ra ban đầu để mua hàng hóa, sau đó bán hàng hóa đó đi để thu lại một lượng tiền lớn hơn.
- Theo công thức vận động của tư bản (T - H - T') ta thấy hình như trong lưu thông tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, điều đó mâu thuẫn với nguyên lý chỉ có lao động sản xuất mới tạo ra giá trị hàng hóa, còn lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị và làm tăng thêm giá trị. Nhưng nếu nằm ngoài lưu thông thì tiền cũng không tăng thêm giá trị.
Vậy, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản: “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông".
Để giải đáp mâu thuẫn này phải tồn tại trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt là khi tiêu dùng nó sẽ đem lại giá trị thặng dư. Đó là hàng hóa - sức lao động.
Hàng hóa sức lao động
- Sức lao động: là toàn bộ những năng lực bao gồm thể lực và trí lực tồn tại trong mỗi con người, được sử dụng trong quá trình lao động.
Thể lực: là năng lực về thể chất, là khả năng lao động của con người về mặt cơ bắp
Trí lực: là năng lực về tinh thần, là khả năng lao động của con người về mặt trí tuệ.
- Lao động: là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người, là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm.
Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa
- Điều kiện 1: người lao động được tự do về thân thể, tự do chi phối sức lao động của mình, có quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định.
Trong điều kiện này cần chú ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, sở hữu sức lao động của mình để có thể đem bán sức lao động với tư cách là một hàng hóa.
Thứ hai, người có sức lao động chỉ bán sức lao động của mình trong một thời gian nhất định.
- Điều kiện 2: người lao động buộc phải bán sức lao động của mình khi không có đủ tư liệu sản xuất cần thiết để tự tổ chức sản xuất.
+ Người lao động mất hết tư liệu sản xuất chủ yếu buộc phải bán sức lao động để tồn tại;
+ Người lao động có tư liệu sản xuất nhưng không có khả năng tổ chức sản xuất hoặc có khả năng nhưng kém hiệu quả.
Kết luận: Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có đồng thời hai điều kiện nói trên
Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
- Giá trị hàng hóa sức lao động
+ Giá trị hàng hóa sức lao động là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động (được đo gián tiếp thông qua những tư liệu tiêu dùng để tạo ra và tái tạo ra sức lao động).
+ Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị những tư liệu tiêu dùng để tạo ra và tái tạo ra sức lao động, bao gồm: Giá trị tư liệu tiêu dùng để nuôi sống người lao động; Giá trị tư liệu tiêu dùng cho gia đình người lao động; Chi phí để đào tạo người lao động.
+ Giá trị hàng hoá sức lao động mang yếu tố tinh thần và lịch sử xã hội
- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động: là công dụng của hàng hoá sức lao động để thỏa mãn nhu cầu của người mua.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khả năng thỏa mãn nhu cầu của người mua để sản xuất ra giá trị sử dụng nào đó.
+ Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động để sản xuất ra hàng hóa.
+ Tính chất đặc biệt của giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động: hàng hóa sức lao động là nguồn gốc sinh ra giá trị, trong quá trình sử dụng, nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đây chính là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư – cơ sở tạo nên sự giàu có của giai cấp tư sản.
Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu hàng hóa sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng thị tường lao động ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận sức lao động là hàng hóa (khi có các đủ điều kiện để trở thành hàng hóa) cho nê việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là vấn đề cốt lõi, trọng tâm của Đảng ta.
Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi thị trường lao động ở Việt Nam phát triển linh hoạt dể hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thế nhưng, do mới hình thành và phát triển chưa đồng bộ, nên thị trường lao động VN đang bộc lộ nhiều yếu điểm lẫn mau thuẫn. trong khi chúng ta dư thừa sức lao động ở nông thôn thì ở lĩnh vực phát triển công nghiệp, dịch vụ trung cao cấp lại thiết hụt lao động trầm trọng. Chính vì vậy, cần phải:
Thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, thúc đẩy các vùng kinh tế để tạo việc làm cho người lao động.
Đẩy mạnh công tác giáo dục nâng cao tay nghề cho người lao động.
Coi trong công tác hướng nghiệp.
Phân bổ dân cư hợp lý để tránh những nơi thiếu lao động, nơi thì thừa lao động,
Xây dựng quỹ đào tạo chung cho doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế nhằm đào tạo lại nghề cho công nhân bị thất nghiệp do chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Có các biện pháp hỗ trợ vốn, thế cho các doanh nghiệp đưa công nhân ra nước ngoài đào tạo.
Chú trọng công tác xuất khẩu lao động, nâng cáo chất lượng nghề của lao động, tạo tín hiệu cho cung và cầu giữa thị trường trong và ngoài nước.
Câu 5. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh, ý nghĩa của việc nghiên cứu?
Bài 13, trang 232-236.
Lưu ý: Nếu câu hỏi thi hỏi về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối thì phải trình bày luôn cả nội dụng “Giá trị thặng dư siêu ngạch”
Giá trị thặng dư là bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản.
Ngày lao động của công nhân làm thuê:
Ngày lao động: là thời gian lao động trong ngày, bao gồm: thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư.
- Thời gian lao động cần thiết (t): là khoảng thời gian mà người lao động tạo ra được 1 lượng giá trị ngang bằng với giá trị hàng hóa sức lao động.
- Thời gian lao động thặng dư (t’): là khoảng thời gian mà người lao động tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
- Khái niệm: giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động không đổi.
Phương pháp này thường được sử dụng trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, gồm thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ. Bây giờ kéo dài ngày lao động thành 10 giờ, thời gian lao động tất yếu không đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng từ 4 giờ lên 6 giờ.
Trong ví dụ trên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên:
m’ = = 100% lên m’ = = 150%.
- Con đường, biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: 2 biện pháp
+ Biện pháp 1, kéo dài ngày lao động:
Tuy nhiên, việc kéo dài ngày lao động của nhà TB đối với công nhân gặp phải những giới hạn sau:
Thứ nhất: ngày lao động bị giới hạn bởi ngày tự nhiên (24 giờ).
Thứ hai: việc kéo dài đó không thể vượt quá giới hạn tâm sinh lý của công nhân.
Thứ ba: việc kéo dài thời gian lao động gặp phải sự phản kháng, đình công, bãi công của giai cấp công nhân.
+ Biện pháp 2, tăng cường độ lao động:
Việc tăng cường độ lao động cũng gặp phải giới hạn, vì sức lực của mỗi công nhân là có hạn.
- Đánh giá: sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp bóc lột tàn bạo, nặng nề đối với công nhân lao động làm thuê.
2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
- Khái niệm: Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi ngày lao động có thể không đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong giai đoạn sau của chủ nghĩa tư bản, khi mà khoa học công nghệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã có sự phát triển nhất định.
Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ trong đó 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư. Nếu giảm giá trị sức lao động xuống còn 2 giờ, thời gian lao động thặng dư tăng lên 6 giờ. Do đó tỷ suất giá trị thặng dư từ 100% tăng lên 300%.
Biện pháp: để có được giá thị thặng dư tương đối, các nhà tư bản phải giảm giá trị sức lao động xuống. Giá trị của hàng hoá sức lao động là giá trị những tư liệu tiêu dùng để tạo ra và tái tạo ra sức lao động, bao gồm: Giá trị tư liệu tiêu dùng để nuôi sống người lao động; Giá trị tư liệu tiêu dùng cho gia đình người lao động; Chi phí để đào tạo người lao động. Như vậy, để giảm giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt, để giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt thì phải tăng năng suất các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt hoặc các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt (để tạo ra nguyên, nhiên, vật liệu rẻ hơn; máy móc, trang thiết bị hiện đại hơn).
Giá trị thặng dư tương đối thu được khi năng suất lao động xã hội tăng lên, và do đó, giá trị sức lao động giảm xuống, thời gian lao động tất yếu sẽ giảm theo.
- Đánh giá: đây là phương pháp bóc lột tinh vi, xảo quyệt đối với công nhân lao động làm thuê.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối dựa trên những nhân tố không bị giới hạn:
Sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ
Sự nâng cao về trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động
Sự nâng cao về trình độ tổ chức, quản lý của nhà tư bản
Giá trị thặng dư siêu ngạch
- Khái niệm: giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
- Đặc điểm:
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch phản ánh hai mối quan hệ: quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản với công nhân làm thuê và quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản
+ Đây là hiện tượng tồn tại tạm thời đối với từng nhà tư bản nhưng là hiện tượng tồn tại thường xuyên trong xã hội tư bản
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, vì chúng đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
- Trong thực tiễn lịch sử, để thu được giá trị thặng dư tương đối, giai cấp tư sản đã thực hiện ba cuộc cách mạng nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao động:
+ Thứ nhất, cách mạng về tổ chức quản lý lao động thông qua hiệp tác lao động giản đơn tư bản chủ nghĩa.
+ Thứ hai, cách mạng về sức lao động thông qua phân công trong công trường thủ công.
+ Thứ ba, cách mạng về công cụ lao động thông qua cách mạng công nghiệp.
Ý nghĩa lý luận Xem phần 2.5 Trang 235 Giáo trình
Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của CNTB.
Giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại, phát triển của CNTB, không ngừng phản ánh mục đích mà cả phương pháp, thủ đoạn và phương tiện để đạt được mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Mục đích trực tiếp của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng và cũng không phải vì sản xuất ra giá trị nói chung, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư. Đối với tất cả các nhà TB, giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
Phương pháp và thủ đoạn bóc lột công nhân làm thuê để có giá trị thặng dư ngày càng lớn là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng năng suất lao động. Phương tiện dể đạt được mục đích trên là ứng dụng kỹ thuật, công nghiệp hiện đại trên cơ sở hình thành và phát triển nền đại công nghiệp cơ khí. Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của xã hội tư bản. nó quyết định toàn bộ quá trình phát sinh, phát triển của CNTB và sự thay thế CNTB bằng một xã hội mới cao hơn. Nó là động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy phát triển kỹ thuật, công nghệ, phân công lao động, xã hội hóa sản xuất; nó lôi cuốn mọi hoạt động sản xuất và thu hút toàn bộ lao động xã hội vào phục vụ lợi ích của GCTS.
Song, do tác động của quy luật giá trị thặng dư nên sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa diễn ra dưới hình thức mâu thuẫn đối kháng. Sự tác động của quy luật này làm cho mâu thuẫn cơ bản – mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của nền sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – và nói chung, toàn bộ mâu thuẫn của CNTB ngày càng sâu sắc, tạo cơ sở kinh tế, xã hôi quyết định địa vị lịch sử của CNTB.
Liên hệ ở Việt Nam
Việt Nam đã áp dụng một cách sáng tạo cả hai phương pháp.
Phương pháp 1: Tăng ca cho người lao động, nhưng không khuyến khích, Luật lao động quy định không được tăng ca quá 200 giờ/năm, và được hưởng thu nhập tăng thêm cho việc tăng ca.
Phương pháp 2: VN áp dụng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của CNTB. Nội dung của là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của CNTB. Nó là động lực vận động và phát triển của CNTB đồng thời nó cũng làm cho mâu thuẫn của CNTB ngày càng sâu sắc, đưa đến thay thế tất yếu CNTB bằng xã hội mới cao hơn.
Ở Việt Nam, đẩy mạnh xã hội hóa sản xuất theo định hướng XHCN từ một nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn để sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư, cần phải:
Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Khuyến khích và tạo điều kiện dể các thành phần kinh tế khai thác tối đa các nguồn lực: vốn, sức lao động, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến, phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; thừa nhận thuê mướn lao động nhưng không để nó trở thành quan hệ thống trị.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo tránh sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập, không để chênh lệch quá lớn về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Câu 6. Quy luật chung của lích lũy tư bản. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
Bài 13, trang 236-239
Tích lũy tư bản chủ nghĩa
TLTB là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Bản chất của tích lũy tư bản được thể hiện thông qua quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không ngừng.
Nội dung của tái sản xuất:
+ Tái sản xuất ra của cải vật chất.
+ Tái sản xuất ra sức lao động.
+ Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.
Tái sản xuất được chia thành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Tái sản xuất giản đơn TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản như cũ, nhà tư bản tiêu dùng hết giá trị thặng dư.
Ví dụ: Một nhà TB có: K = 100 triệu USD (80 dùng để mua TLSX, 20 dùng để mua SLĐ); m’ = 100%
Năm thứ nhất: 80c + 20v + 20m → Nhà TB tiêu dùng 20m
100
Năm thứ hai: (theo tỷ lệ như cũ), quy mô sx không thay đổi
80c + 20v + 20m
K’= K =100
→ Nhà tư bản tiếp tục tiêu dùng hết 20m.
Kết luận của Mác khi nghiên cứu tái sản xuất giản đơn TBCN:
+ Nguồn gốc của tư bản khả biến hay tiền công từ quá trình lao động của công nhân làm thuê;
+ Nguồn gốc của toàn bộ tư bản ứng trước cũng từ lao động của công nhân làm thuê;
+ Địa vị phụ thuộc của công nhân làm thuê đối với nhà tư bản.
Tái sản xuất mở rộng TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản lớn hơn trước, nhà tư bản không tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Ví dụ: Một nhà TB có: K = 100 triệu USD (80 dùng để mua TLSX, 20 dùng để mua SLĐ); m’ = 100%
Năm thứ nhất: 80c + 20v + 20m
100
Trong 20m, nhà TB tiêu dùng 10m và tích lũy 10m để mở rộng sản xuất
Năm thứ hai: (theo tỷ lệ như cũ, với 10 tr. đô tư bản phụ thêm, nhà tư bản sẽ chia thành 8c và 2v)
88c + 22v + 22m
K’= K+10
Trong 22m, nhà tư bản tiếp tục tiêu dùng 11m và tích lũy 11m.
Kết luận của Mác khi nghiên cứu tái sản xuất mở rộng TBCN:
+ Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư
+ Sự chuyển hoá của quy luật sở hữu trong nền sản xuất hàng hoá thành các quy luật chiếm hữu tư bản chủ nghĩa.
Những nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản (Trang 237)
Quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.
Các yếu tố quyết định quy mô tích lũy tư bản:
- Nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư;
- Nâng cao sức sản xuất của lao động;
- Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng;
- Đại lượng tư bản ứng trước (c + v).
Các quy luật phổ biến của tích lũy tư bản (Trang 238)
Quá trình tích lũy tư bản dẫn đến một loạt các hậu quả, thể hiện các quy luật phổ biến của tích lũy tư bản, bao gồm:
1. Cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng
- Cấu tạo kỹ thuật của tư bản: là tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất với số lượng lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó.
- Cấu tạo giá trị của tư bản: là tỷ lệ về số lượng giá trị giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến (hay giữa giá trị tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động) cần thiết để tiến hành sản xuất (c/v).
- Cấu tạo hữu cơ của tư bản:
+ Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản, do cấu tạo kỹ thuật quyết định và phản ảnh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật. Ký hiệu là c/v.
+ Trong quá trình tích lũy, cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) ngày một tăng.
c/v tăng do: + c tăng nhanh, v tăng chậm
+ c tăng, v không đổi
+ c tăng, v giảm
+ Cấu tạo hữu cơ tư bản tăng, hay là trong quá trình tích lũy tư bản (c) luôn tăng tuyệt đối và (v) giảm tương đối. Đây là nguyên nhân tiềm ẩn của nạn thất nghiệp trong xã hội tư bản.
2. Tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
- Tích tụ tư bản: là quá trình làm tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản: là quá trình làm tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất các tư bản sẵn có lại với nhau.
- Tích tụ và tập trung tư bản tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau và luôn thúc đẩy nhau phát triển.
Tích lũy tư bản làm cho quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng nhanh, đến lượt nó, tích tụ và tập trung tư bản tăng nhanh lại khiến cho quy mô tích lũy không ngừng được mở rộng.
3. Tích lũy tư bản dẫn tới quá trình bần cùng hóa giai cấp công nhân
- Tích lũy tư bản đồng nghĩa với tích lũy sự giàu sang về phía giai cấp tư sản và tích lũy sự nghèo khổ về phía giai cấp công nhân, nói cách khác, tích lũy tư bản là quá trình bần cùng hoá của giai cấp công nhân.
- Bần cùng hóa tương đối và bần cùng hóa tuyệt đối:
+ Bần cùng hóa tương đối: là sự giảm sút tỷ trọng thu nhập của giai cấp công nhân so với thu nhập của các nhà tư bản (nói cách khác là sự chênh lệch thu nhập ngày càng lớn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân).
+ Bần cùng hóa tuyệt đối: là sự giảm sút mức sống của công nhân xuống dưới mức sống tối thiểu của xã hội.
- Tích lũy tư bản càng diễn ra mạnh mẽ thì mâu thuẫn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu tích lũy tư bản cho thấy rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Việc phân tích quá trình tích lũy tư bản cho thấy quá trình lao động của người CN tạo ra tiền lương, giá trị thặng dư. Nguồn gốc của tích lũy là giá trị thặng dư (mà giá trị thặng dư là lao động không công của người LĐ bị GCTS chiếm đoạt) và tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản. C.Mac nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành những phương tiện để bóc lột chính người công nhân.
Quá trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự trao đổi giữa những người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất TBCN dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của CN mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó.
Bản chất bóc lột của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, sở dĩ CNTB có thể tồn tại và phát triển được là dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê.
Như vậy toàn bộ của cải giai cấp tư sản là do lao động của công nhân tạo ra và giai cấp công nhân có quyền chiếm hữu tất cả tài sản do mình làm ra.
Xu hướng là CNTB tất yếu sẽ được thay thế bằng phương thức sản xuất mới cao hơn.
Ý nghĩa thực tiễn
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay để tạo nguồn vốn cho nền kinh tế chúng ta phải tích lũy nền kinh tế quốc gia từ nội lực của nền kinh tế và kêu gọi mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đầu tư mở rộng sản xuất để phát triển kinh tế tăng khả năng tích lũy, nâng cao lực cạnh tranh, đẩy mạnh ứng dụng KHKT, tão điều kiện thúc đẩy KTXH phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.
Tích lũy nên kinh tế làm cho nền kính tế nước ta tích lũy được nguồn vốn phát triển kinh tế và xây dựng CNXH. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp cần phải năng động sáng tạo tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tạo ra hàng hóa có chất lượng tốt, năng suất lao động cao, nâng cao sức cạnh tranh cả hàng hóa trên thị trường. Đồng thời cần mở rộng hội nhập để mở rộng thị trường tiêu thu hàng hóa. Đào tạo đội ngũ công nhân, lao động có tay nghề, thúc đẩy sản xuất.
Ở nước ta hiện nay, tích lũy, tích tụ và tập trung nền kinh tế đó là sự hợp tác, đầu tư của các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, việc cổ phần hóa các công ty làm cho qui mô của các ngành kinh tế lớn hơn, có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, chống ;ại sự thôn tín của các nước phát triển trên thế giới.
Bên cạnh đó cũng có những tác động tiêu cực: Việc tíchlũy nền kinh tế không đúng mục đích làm cho xã hội VN có sự phân hóa giàu nghèo, tạo nên sự mất bình đẳng xã hội ngàng càng lớn, tăng nguy cơ thất nghiệp, các tệ nạn xã hội tăng.
Câu 7. Lợi nhuận và lợi nhuận bình quân trong chủ nghĩa tư bản.
Bài 13, tr 241-246
Lợi nhuận (Trang 241)- Thêm nội dung SGK
Chi phí thực tế để sản xuất ra hàng hóa là chi phí lao động thực tế để sản xuất ra hhàng hóa đó, gồm có lao động quá khứ và lao động sống. W= giá trị cũ + giá trị mới
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa: là giá trị bù lại giá cả tư liệu sản xuất và sức lao động đã hao phí để tạo ra hàng hóa cho nhà tư bản. K = c+ v
Lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa giá trị hàng hoá với chi phí tư bản.
Nói cách khác, sau khi bán hàng hoá và bù đắp đầy đủ chi phí tư bản, nhà tư bản thu được một phần lời ngang bằng giá trị thặng dư gọi là lợi nhuận.
Ký hiệu của lợi nhuận là p.
Công thức: p = w – k
p = (c + v + m) – (c + v)
p = m
+ Lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư, giá trị thặng dư là nội dung bên trong còn lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư ra bên ngoài. Khi giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận thì công thức giá trị của hàng hoá w = c + v + m chuyển hoá thành w = k + p.
+ Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái lợi nhuận. Lợi nhuận đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, xóa nhòa ranh giới giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến, xóa nhòa nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
+ Vai trò của “lợi nhuận”: nếu giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại và làm giàu của các nhà tư bản, thì lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất – kinh doanh tư bản chủ nghĩa.
- Tỷ suất lợi nhuận: Là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận so với toàn bộ tư bản ứng trước (ký hiệu: p’). Tỷ suất lợi nhuận thường được tính theo năm, ta có tỷ suất lợi nhuận hàng năm.
Công thức p’= (p/(c+v))x100% với p = m thì p’ = (m/(c+v))x100%
+ Tỷ suất lợi nhuận khác tỷ suất giá trị thặng dư cả về và lượng chất:
Về lượng, tỷ suất lợi nhuận (p’ = m/k) luôn khác tỷ suất giá trị thặng dự (m’ = m/v).
Về chất, tỷ suất giá trị thặng dư thể hiện trình độ bóc lột/khai thác công nhân, còn tỷ suất lợi nhuận thể hiện mức sinh lợi của tư bản hay hiệu quả kinh doanh của nhà tư bản. Chính vì vậy, các nhà tư bản luôn tìm mọi cách để tăng tỷ suất lợi nhuận.
+ Các nhân tố ảnh hưởng đến (p’)
1. Tỷ suất giá trị thặng dư;
2. Tốc độ chu chuyển của tư bản;
3. Tiết kiệm tư bản bất biến;
4. Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v).
Lợi nhuận bình quân (trang 243)
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh cùng một loại hàng hoá, nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất. Cạnh tranh nội bộ ngành dẫn tới sự hình thành giá trị xã hội của hàng hóa.
Giá trị xã hội một mặt phải được coi là giá trị trung bình của những hàng hoá sản xuất trong 1 khu vực sản xuất nào đó; mặt khác, giá trị xã hội phải được coi là giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình và chiếm tỷ trọng lớn của khu vực đó.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh ở các ngành khác nhau nhằm tìm kiếm nơi đầu tư kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Kết quả, hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.
- Lợi nhuận bình quân
Do cấu tạo hữu cơ và tốc độ chu chuyển tư bản giữa các ngành khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận cũng khác nhau, vì thế tư bản có xu hướng di chuyển từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tình trạng trên chỉ tạm thời dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận của các ngành tương đối bằng nhau. Lợi nhuận thu được trong điều kiện đó gọi là lợi nhuận bình quân.
Ví dụ: Giả định một xã hội tư bản chỉ với 3 ngành: cơ khí, dệt và da. Do tính chất và điều kiện sản xuất khác nhau nên cấu tạo hữu cơ của tư bản mỗi ngành khác nhau, cơ khí là 4/1, dệt là 7/3 và da là 3/2. Với một lượng tư bản ứng trước như nhau, là 100 đơn vị tiền tệ, cùng tỷ suất giá trị thặng dư bằng nhau là 100%. Điều đó đã dẫn tới sự di chuyển của tư bản và góp phần hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân như sau:
Ngành SẢN
XUẤT
Chi phí TB
M
(m’:100%)
P’
P’BQ
Cơ khí
80c+20v
20m
20%
30%
Dệt
70c+30v
30m
30%
30%
Da
60c+40v
40m
40%
30%
+ Lợi nhuận bình quân là lợi nhuận bằng nhau, của những lượng tư bản như nhau, được đầu tư vào các ngành khác nhau (ký hiệu: PBQ ).
+ Tỷ suất lợi nhuận bình quân được tính bằng số bình quân gia quyền của các tỷ suất lợi nhuận, như sau:
P’BQ = ∑ P/ ∑ (C + V)
+ Lợi nhuận bình quân một lần nữa che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản (nó làm người ta hiểu rằng tư bản tạo ra lợi nhuận: k -> p).
+ Lợi nhuận bình quân vừa phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản vừa phản ảnh sự thoả hiệp cùng bóc lột giai cấp công nhân của họ.
Tóm lại: (Trang 246)
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân đã trở thành căn cứ cho các nhà tư bản lựa chọn ngành nghề, phương án kinh doanh, do đó, nó lá quy luật điều tiết chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự hình thành và hoạt động của lợi nhuận bình quân thể hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành thống trị trong đời sống kih tế, đã làm cho quy luật giá trị - quy luật kinh tế can7 bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa phải hoạt động dưới hình thái chuyển hóa là quy luật giá cả sản xuất. Điều đó chứng tỏ, nền kinh tế của CNTB hình thành từ kinh tế hàng hóa phát triển trên cơ sở các quy luật của kinh tế hàng hóa, làm cho kinh tế hàng hóa phát triển thành phổ biến, thành kinh tế thị trường. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ rằng, chủ nghĩa tư bản đã tìm ra và biết cách vận dụng các quy luật của nền kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của các nhà tư bản.
Câu 8. Nguyên nhân hình thành độc quyền trong CNTB. Những biểu hiện mới của độc quyền trong CNTB ngày nay.
Nguyên nhân hình thành độc quyền trong CNTB (Bài 14, trang 260-263)
Tổ chức độc quyền là sự liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một (một số) ngành, cho phép liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.
Độc quyền trong chủ nghĩa tư bản là sự liên minh giữa các nhà tư bản lớn, có khả năng khống chế việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Nguyên nhân hình thành độc quyền trong chủ nghĩa tư bản:
Thứ nhất, tác động của các quy luật kinh tế trong chủ nghĩa tư bản không những tạo điều kiện hình thành mà còn đẩy nhanh sự phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn. Kết quả là từ cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện rõ nét những cơ sở vật chất để hình thành các doanh nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ đã tạo cơ sở hình thành các ngành sản xuất mới, mà để phát triển thì ngay từ đầu đã phải được tổ chức sản xuất trên quy mô lớn như ngành đường sắt, luyện kim, chế tạo máy móc, v.v.. Nhờ đó, mô hình doanh nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa đã có thêm lĩnh vực để hình thành và phát triển.
Thứ ba, sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ tín dụng, đặc biệt dưới hình thái tín dụng ngân hàng, đẩy nhanh quá trình tách bạch quyền quản lý kinh doanh từ quyền sở hữu đối với các nguồn lực kinh tế, nhất là đối với các nguồn vốn, đất đai, tạo thuận lợi cho việc hình thành và phát triển nhanh các hình thức tập trung tư bản, thúc đẩy quá trình hình thành mô hình doanh nghiệp hiện đại quy mô lớn dưới hình thái công ty cổ phần, thể hiện sự gia tăng mức độ tập trung sản xuất với quy mô ngày càng lớn.
Thứ tư, các cuộc khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là từ khủng hoảng kinh tế năm 1873 đã kiểm nghiệm tính vững chắc của các doanh nghiệp lớn, khẳng định rằng chúng sẽ trở thành chủ thể chi phối những quan hệ kinh tế và chính trị chủ yếu trong xã hội tư bản.
Sự hình thành của các doanh nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã dẫn tới hình thành xu thế liên kết giữa chúng, trở thành các tổ chức độc quyền. Sự hình thành và gia tăng sức mạnh của tổ chức độc quyền trong nền kinh tế các nước tư bản phát triển đã làm cho chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang độc quyền mà V.I.Lênin gọi là chủ nghĩa đế quốc.
Các đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản giai đoạn độc quyền:
Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Xuất khẩu tư bản
Sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền
Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các đế quốc
Một số biểu hiện mới của độc quyền trong chủ nghĩa tư bản ngày nay (bài 14, trang 282-288)
Biểu hiện mới của tích tụ và tập trung tư bản
Đặc điểm tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền có những biểu hiện mới, đó là sự xuất hiện các công ty độc quyền xuyên quốc gia bên cạnh sự phát triển của các xí nghiệp vừa và nhỏ.
- Những hình thức tổ chức độc quyền mới đã ra đời. Đó là các Concern (Consơn) và các Conglomerate (Công-gơ-lô-mê-rết).
- Ở các nước tư bản phát triển hiện nay, bên cạnh các tổ chức độc quyền lớn lại xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Sự xuất hiện này là do:
Thứ nhất, việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho phép tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá sản xuất sâu, dẫn đến hình thành hệ thống gia công.
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những thế mạnh của nó, đó là nhạy cảm đối với thay đổi trong sản xuất; linh hoạt ứng phó với sự biến động của thị trường; mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới đòi hỏi sự mạo hiểm; dễ đổi mới kỹ thuật trang thiết bị mà không cần nhiều chi phí bổ sung; có thể kết hợp nhiều loại hình kỹ thuật để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế.
Ngoài ra, độc quyền cũng bắt đầu xuất hiện cả ở những nước đang phát triển. Các tổ chức độc quyền luôn có xu hướng bành trướng quốc tế. Trong điều kiện hiện nay, xu hướng vận động của chúng là trở thành các công ty xuyên quốc gia và liên minh với nhà nước hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đó là biểu hiện mới của độc quyền và là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong những điều kiện mới.
Biểu hiện về vai trò của tư bản tài chính trong các tập đoàn độc quyền
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi và những biểu hiện mới:
- Xuất hiện và phát triển thêm nhiều ngành kinh tế mới như dịch vụ, bảo hiểm… Thích ứng với sự biến đổi đó, phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau được mở rộng ra nhiều ngành, dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu: công - nông -thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc phòng; ... Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp hơn.
- Cơ chế tham dự của tư bản tài chính cũng có sự biến đổi: “chế độ tham dự” được bổ sung thêm bằng "chế độ uỷ nhiệm".
- Để thích ứng với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, các tập đoàn tư bản tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc gia, thực hiện việc điều tiết các Concern và Conglomerate xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới là kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế.
Biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản
Thứ nhất, những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản phát triển với nhau.
Thứ hai, chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển.
Thứ ba, hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan xen giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hoá tăng lên.
Thứ tư, sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi trong đầu tư được đề cao.
Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền
Ngày nay, sự phân chia thị trường thế giới giữa các liên minh độc quyền có những biểu hiện mới do tác động của xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng tăng bên cạnh xu hướng khu vực hoá nền kinh tế.
Tư bản độc quyền quốc tế là thế lực đang chi phối quá trình toàn cầu hoá thông qua các tổ chức kinh tế quốc tế và đang ra sức hạn chế sự phát triển của các tổ chức khu vực. Các cuộc chiến tranh thương mại hiện đại đang trở thành những biểu hiện mới của quá trình phân chia thị trường thế giới của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Biểu hiện mới về sự phân chia lãnh thổ ảnh hưởng dưới sự chi phối của các tập đoàn độc quyền
Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn tiếp tục dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới:
Vào nửa cuối thế kỷ XX, các cường quốc tư bản vẫn tranh giành nhau phạm vi ảnh hưởng bằng cách thực hiện "chiến lược biên giới mềm", ra sức bành trướng "biên giới kinh tế". Sang đầu thế kỷ XXI, những nguy cơ chạy đua vũ trang mới, thực chất là nguy cơ chiến tranh lạnh phục hồi trở lại. Mặt khác, sự phân chia lãnh thổ thế giới lại được thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo mà đứng bên trong hoặc núp đằng sau, trực tiếp hoặc gián tiếp các cuộc đụng độ đó chính là các cường quốc tư bản.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nhận diện đúng bản chất của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh tác động toàn diện và sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có ý nghĩa quan trọng, góp phần bổ sung vào hệ thống nền tảng nhận thức, lý luận của Đảng, đồng thời củng cố sự kiên định về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhận thức mới về bản chất và biểu hiện của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay là căn cứ lý luận khoa học quan trọng để củng cố niềm tin, kiên định việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Nhằm xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.
Trên thực tế, không thể phủ nhận chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh, thích ứng, tận dụng được các thành tựu khoa học - công nghệ để tồn tại, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới. Do đó, cần có nghiên cứu đầy đủ, khách quan, toàn diện để làm rõ bản chất, nội hàm, biểu hiện cũng như tác động của những điều chỉnh đối với chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng như xu thế phát triển của nhân loại. Từ đó, góp phần cung cấp cơ sở khoa học, luận cứ cho việc tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới và hiện thực hóa mục tiêu chiến lược và khát vọng dân tộc theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Trong giai đoạn mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hóa đời sống thế giới, mở cửa hội nhập trở thành tất yếu, bên cạnh thời cơ, thuận lợi thì không ít thách thức, nguy cơ cũng xuất hiện. Vì toàn cầu hóa hiện nay, về bản chất, là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản độc quyền chi phối, hơn nữa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Mặc dù hoà bình, hợp tác, phát triển là xu hướng của thời đại, qua đó, tạo điều kiện để đất nước thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhưng xu hướng cường quyền, gây sức ép đối với các quốc gia, vẫn luôn hiện hữu. Đó là thách thức, nguy cơ cần có sự nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, tránh mơ hồ, mất cảnh giác, để có chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó chủ động, hữu hiệu. Các nước vừa và nhỏ dù muốn hay không cũng phải nắm bắt xu thế trong quan hệ của các nước lớn để hoạch định, điều chỉnh chính sách đối ngoại với phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, chiến lược và mềm dẻo, linh hoạt về sách lược để hội nhập hiệu quả trong xu hướng thế giới nhiều đổi thay.
Câu 9 : Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. (Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN).
QUAN ĐIÊM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢNCHỦ NGHĨA
1. Khả năng khách quan và tiền đề chủ quan của quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường phát triển của đất nước là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chê độ tư bản chủ nghĩa. là xu thế R Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ngay cả trong điều kiện không còn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
1.1. Về khả năng khách quan
Trước hết, phải kể đến nhân tố thời đại. Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia;
nhân tố này như bối cảnh thuận lợi bên ngoài cho sự quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này.
1. Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện "con đường phát triền rút ngắn". Ngày nay, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triền của công nghệ số và những đột phá trên nhiều lĩnh vực đang mang đến thời cơ mới cho phát triển bứt phá đối với mọi quốc gia.
2. Xu thế toàn câu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thể giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển nếu có đường lối, chính sách đúng.
Trong điều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bố sung, phát triển năm 2011) khẳng định: "Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước... tạo thời cơ phát triển"!
Trong những năm tới, mặc dù tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi nhanh, phức tạp và khó lường nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn sẽ là tác động có lợi cho cách mạng của nhân dân ta.
1.2. Về những tiền đề chủ quan
Thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế của thế giới và Việt Nam cho thấy, khả năng khách quan chỉ là điều kiện cần cho sự phát triển. Để những khả năng khách quan của sự phát triển kinh tế thành hiện thực trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam cần phải hội tụ được những tiền đề chủ quan cần thiết. Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và đặc biệt tổng kết 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, có thể chỉ ra những tiền đề chủ quan gồm:
Thứ nhất, Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng, đặc biệt là tiềm năng ý chí và trí tuệ của con người Việt Nam. Nhân dân ta đã lập nên chính quyền lưc nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng những được cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa xã hội. So sánh với Liên Xô trước đây khi bắt đầu thời kỳ quá độ, ta tuy có mặt tit huyển, nhưng cũng có những mặt thuận lợi hơn trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo - một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối đúng đắn và
Đang gắn bó với quần chúng - là nhân tố chủ quan có ý nghĩa rất lớn, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, việc tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng vẫn là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triền đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
- Thứ hai, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được.
Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức vượt mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Minh chứng thuyết phục mà cả thế giới phải thừa nhận là: việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc cùng tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài đã mang lại những kết quả quan trọng trong phòng, chống, khống chế, kiểm soát, ngăn chặn sự lây lan của đại dịch Covid-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra.
_Thứ ba, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI đến nay đã thu được những kết quả khả quan. Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: "Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thể phát triền của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đẳn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đối mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tố quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới"! Điều đó đã củng cố và khăng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
2. Bản chất của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có ý nghĩa thực tiền quan trọng, giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy ý chí về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước đang phát triền.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Hồ Chí Minh là: " ...trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc"
Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã khẳng định:
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đẳn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thể phát triển của lịch sử.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trước những năm đổi mới, đã xuất hiện không ít khó khăn, thách thức như: đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng trầm trọng, Liên Xô và phe các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Vận dụng tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã từng bước xác định rõ hơn những chặng đường mà dân tộc phải trải qua trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V trên cơ sở tổng kết quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước năm 1975 và trên phạm vi cả nước sau năm 1975, đã khẳng định: nước ta mới chỉ bước vào chặng đường đầu tiên của một thời kỳ quá độ lâu dải. Báo cáo chính trị của Đại hội V nêu rỡ: Chúng ta phải hiểu đúng và cụ thể hóa đường lối chung và đường lối kinh tế, căn cứ vào đường lối để vạch ra chiến lược kinh tế - xã hội, những kế hoạch phát triển, những chủ trương, chính sách và biện pháp lớn cho cả nước, cũng như cho từng ngành, từng lĩnh vực, sát với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, với những yêu cầu và khả năng của nhân dân ta trong từng chặng đường, v.v.. Về kinh tế, kết hợp phát triển, sắp xếp lại và cải tạo kinh tế, đặc biệt là tập trung sức phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, kết hợp ngay từ đầu nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng, v.v.. "Căn cứ vào đường lối của Đảng và xuất phát từ thực trạng nền kinh tế quốc dân, chúng ta xác định những mục tiêu kinh tế và xã hội tổng quát của những năm 80 là:
Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng tốt hơn những nhu cầu về mặc, về học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, về chăm sóc trẻ em và các nhu cầu tiêu dùng thiết yếu khác.
Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác, và chuẩn bị cho sự phát triền mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã nhận định: Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cơ sở nhận định đúng những đặc điểm cơ bản của tình hình cách mạng nước ta, Đảng đã kịp thời quyết định thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ. Nhưng việc đánh giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước, đã có nhiều thiếu sót. Do đó, trong mười năm qua, chúng ta đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bưc đi cần thiết, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên.
Trong 5 năm 1976-1980, trên thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời.
Đại hội lần thứ V, cùng với việc khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược, đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội. Nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt những kết luận quan trọng nói trên, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế,v.v.. "Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất..."!
Từ đó, Đại hội VI đã rút ra các bài học, bao gồm:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố.
Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biêu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI khẳng định: Trên mười năm lãnh đạo đất nước đi vào chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, Đảng đã có điều kiện để nhận thức sâu sắc hơn những đặc điểm của chặng đường đó. Nền sản xuất nhỏ với những nhược điểm vốn có của nó, hậu quả của những cuộc chiến tranh lâu dài trước đây và cả của cuộc chiến tranh mới, tàn dư của chế độ cũ, đang là những trở ngại trên con đường phát triển của nước ta. Bằng những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã khắc phục một bước sự phân tán và lạc hậu của nền kinh tế, cải biến một phần cơ cấu kinh tế - xã hội, đặt những cơ sở đầu tiên cho bước phát triển mới. Nhưng chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp. Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới và căn cứ vào lời dạy của V.I.Lênin: "Suốt cả thời kỳ đó (thời kỳ quá độ), trong chính sách của chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách, và tất cả sự khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó"', Đại hội VI khẳng định: Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thắng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai", v.v..
Đại hội VI với nhận thức rõ hơn về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn, đồng thời xác định rõ những nhiệm vụ cơ bản cần thực hiện trong chặng đường này "là xây dựng những tiền đề chính trị, kinh tế, xã hội cần thiết để triển khai công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn".
thực hiện thành công những nhiệm vụ đó, Đảng ta đã chủ trương thực hiện đường lối đổi mới, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải thay đối lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường khác, mà là thay đổi cách thức, bước đi trong quả trình đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với xu thế mới của thể giới và hoàn cảnh đặc thù của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Đại hội VII tiếp tục khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yêu của nước ta. Chúng ta phê phán những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng không quan niệm những lệch lạc đó là khuyết tật của bản thân chế độ, coi khuyết điểm là tất cả, phủ định thành tựu, từ đó dao động về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Tổng kết thực tiễn phát triển kinh tế thế giới và đặc biệt là tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội IX (2001) nêu rõ: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: Tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Mặc dù hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiềm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản... Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình đổi mới, đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từng bước được xác định rõ hơn. Từ chỗ hiểu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua toàn bộ những gì chủ nghĩa tư bản đã làm trong thời kỳ trước đối mới, đến nhận thức về tính tất yếu khách quan của việc khôi phục và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Đảng ta đã nhất quán xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đại hội XI nhấn mạnh: Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,v.v... đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp với quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ta một lần nữa khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trên cơ sở tổng kết 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 nắm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XIII khẳng định: "Tý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa'' và khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là "phù hợp với thực tiền Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại?
Mục tiêu là "phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên nguyên tắc bảo đảm tính khoa học và thực tiễn; kế thừa và bổ sung phù hợp với những thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước và những chuẩn mực phát triển chung của thế giới, chúng ta xác định các mục tiêu cụ thể không chỉ trong nhiệm kỳ khóa XIII mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta trong những thập niên sắp tới:
Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao".
Như vậy, bằng sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể từng giai đoạn cách mạng của đất nước, Đảng ta đã xác định đúng đắn hơn những chặng đường của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ đó cho phép nhìn nhận rõ hơn về đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
QUAN ĐIÊM CỦA ĐẢNG CỘNG SÁN VIỆT NAM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Khả năng khách quan và tiền đề chủ quan của quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam,Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường phát triển của đất nước là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chê độ tư bản chủ nghĩa. là xu thế R Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ngay cả trong điều kiện không còn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Về khả năng khách quan
Trước hết, phải kể đến nhân tố thời đại. Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia;nhân tố này như bối cảnh thuận lợi bên ngoài cho sự quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này.
1. Sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện "con đường phát triền rút ngắn". Ngày nay, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự phát triền của công nghệ số và những đột phá trên nhiều lĩnh vực
đang mang đến thời cơ mới cho phát triển bứt phá đối với mọi quốc gia.
2_ Xu thế toàn câu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thể giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển nếu có đường lối, chính sách đúng.
Trong điều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bố sung, phát triển năm 2011) khẳng định: "Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước... tạo thời cơ phát triển"!
Trong những năm tới, mặc dù tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi nhanh, phức tạp và khó lường nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn sẽ là tác động có lợi cho cách mạng của nhân dân ta.
Câu 10 : Sự cần thiết phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
1. QUAN ĐIỆM CỦA LENIN VỀ ĐẶC ĐIÊM KINH THCỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Tính chất nhiều thành phần - đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội :
Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin chỉ rõ đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại khách quan của nên kinh tế nhiều thành phần, tương ứng với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu, tính chất của các giai cập, tâng lớp này có sự biến đổi sâu sắc.
Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ là do xã hội mới được hình thành và phát triển trước hết dựa trên những lực lượng sản xuất và kết cấu kinh tế - xã hội hiện có cùng sự hình thành từng bước những kết cấu kinh tế - xã hội mới. Đó là biểu hiện của sự tồn tại song song của các kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau.
Từ nghiên cứu sự phát triển trong lịch sử thế giới, V.I.Lênin cho rằng, sự phát triển của từng dân tộc trước hết phải tuân theo tính quy luật chung. Tính quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. V.I.Lênin chỉ rõ: "Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có" Đồng thời, V.I.Lênin đã nêu ra: "Những hình thức cơ bản ấy của nền kinh tế xã hội là: chủ nghĩa tư bản, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa cộng sản"
1.2. Mối quan hệ giữa tính quy luật chung và tính đặc thù của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội :
Từ nghiên cứu sự phát triển trong lịch sử thế giới, V.I.Lênin cho rằng, sự phát triển của từng dân tộc không những tuân theo tính quy luật chung, mà còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những đặc điểm đặc thù về trình tự của sự phát triển đó. Do đó, để tận dụng cơ hội phát triển, không được áp dụng một cách máy móc tính quy luật chung, mà phải kết hợp vận dụng sáng tạo những tính quy luật chung vào hoàn cảnh đặc thù của từng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nhấn mạnh: "nhiệm vụ của những người cộng sản là phải biết áp dụng những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản vào đặc điểm của những mối quan hệ giữa các giai cấp và các đảng, vào đặc điểm của sự phát triển khách quan hướng tới chủ nghĩa cộng sản, những đặc điểm riêng của mỗi nước, mà chúng ta phải biết nghiên cứu, phát hiện và dự đoán? V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo những nguyên tắc phổ biến và cơ bản của chủ nghĩa cộng sản vào đặc thù lịch sử cụ thể của nước Nga thông qua việc xác định các thành phần kinh tế hiện có ở nước Nga trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta hãy kể ra những thành phần kinh tế ấy:
1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên;
2) Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán lúa mì);
3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân;
4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước;
5) Chủ nghĩa xã hội"!
Như vậy, so với tính quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước Nga với hoàn cảnh đặc thù là xuất phát từ trình độ phát triển tương đối thấp của chủ nghĩa tư bản, bên cạnh những thành phần kinh tế phổ biến, như: chủ nghĩa tư bản tư nhân, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa xã hội, vẫn còn tồn tại thành phần kinh tế nông dân gia trưởng, thề hiện những trình độ phát triển thấp hơn, đồng thời hình thành thành phần kinh tế mới - chủ nghĩa tư bản nhà nước, hình thức trung gian quá độ, thể hiện sự đan xen, kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội với các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là chủ nghĩa tư bản tư nhân.
Từ việc nhận diện cơ cấu của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin cho rằng, Cần phải xác định rõ đặc thù của cơ cấu đó trong từng giai đoạn lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, với đặc thù là nước tiểu nông thì sản xuất nhỏ là thành phần kinh tế chiếm ưu thế. Trong điều kiện khắc nghiệt của nội chiến, việc bắt buộc sử dụng chính sách cộng sản thời chiến đã giúp giữ vững chế độ, song đã gây cho các chủ thể sản xuất hàng hóa nhỏ những thiệt hại rất lớn về lợi ích kinh tế, gây ra bất bình nghiêm trọng của nông dân, đe dọa phá vỡ liên minh công nông và sự tồn vong của chế độ mới. Chính sách kinh tế mới (NEP) của V.I.Lênin đã khắc phục được hạn chế này và đáp ứng yêu cầu thực tiễn mới.
Việc đánh giá lại đặc điểm của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau nội chiến đã giúp V.I.Lênin nhận thức rõ sai lầm về thời hạn trong thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Cần phải đánh giá đúng về vị trí, vai trò của thành phần kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, đặc biệt là nông dân sau nội chiến. Mặc dù việc thi hành chính sách cộng sản thời chiến là thành tích, song V.I.Lênin nhấn mạnh: "cần phải biết đúng mức thành tích ấy. Chiến tranh và tình trạng tàn phá đã buộc chúng ta phải thi hành "chế độ cộng sản thời chiến". Nó không phải và không thể là một chính sách phù hợp với nhiệm vụ kinh tế của giai cấp vô sản, nó là một biện pháp tạm thời.
Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì chính sách đúng đắn là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân, để lấy lúa mì của nông dân. Chỉ có chính sách lương thực ấy mới phù hợp với những nhiệm vụ của giai cấp vô sản,
chỉ có chính sách đó mới có thể củng cố được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi hoàn toàn"'Trong giai đoạn đầu của chính sách kinh tế mới, theo V.I Lênin: "Các hợp tác xã cũng là một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước nhưng ít đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thể, trong thực tế, nó đặt Chính quyền xô-viết trước những khó khăn lớn hơn". Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin nhấn mạnh cần nhận thức rõ đặc điểm của hợp tác xã trong các điều kiện lịch sử khác nhau: "Dưới chủ nghĩa tư bản tư nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, cũng như xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản nhà nước, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản nhà nước, trước hết ở chỗ nó là xí nghiệp tư nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể. Dưới chế độ hiện nay của chúng ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản tư nhân, ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể, nhưng nó không khác xí nghiệp xã hội chủ nghĩa, nếu miếng đất trên đó nó được xây dựng và những tư liệu sản xuất đều thuộc về nhà nước, nghĩa là về giai cấp công nhân... trong hoàn cảnh nước ta, chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội".
Những quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và biểu hiện đặc thù trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể là cơ sở phương pháp luận đặc biệt quan trọng, không những cho nhận diện đặc điểm kinh tế cơ bản thể hiện tính quy luật chung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà còn đặt ra yêu cầu phải vận dụng sáng tạo vào điều kiện đặc thù của từng quốc gia, trong từng điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là cơ sở để xác định các nhiệm vụ phù hợp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa tính quy luật chung và tính đặc thù trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội :
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong lựa chọn con đường phát triển của dân tộc, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo nguyên lý kết hợp cái phổ biến với cái đặc thù. Người khẳng định rõ, mặc dù sự phát triển của xã hội loài người tuân theo tính quy luật chung, song các dân tộc tùy vào hoàn cảnh cụ thể có thể lựa chọn con đường phát triển riêng của mình. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người viết: "Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta, v.v
Từ đó, Việt Nam có thể và cần phải lựa chọn con đường riêng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Trong bài Nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp II, cấp III và Hội nghị Sư phạm, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác. Các cô, các chú có thảo luận về Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX không? Đại hội đã chỉ cho ta thấy ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội"!
Trên cơ sở nhận thức về mối quan hệ giữa tính quy luật chung và tính đặc thù trong phát triển kinh tế của từng quốc gia - dân tộc, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
V.I.Lênin về đặc điểm cơ bản của nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn cách mạng.
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế ở vùng tự do giai đoạn 1945-1954 :
Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế nhiều thành phần vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những thành phần kinh tế trong vùng tự do trước năm 1954 ở Việt Nam bao gồm:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Vì tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thì
xưởng trưởng, công trình sư và công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân.
- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội. Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản xuất không phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột.m. Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại hợp tác xã.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán, và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu.
- Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh, và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội»
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã bước sang trang sử mới với những điều kiện nhất định để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là đặc điểm mới của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, đặc thù về hoàn cảnh lịch sử với trình độ phát triển kinh tế thấp kém cùng với yêu cầu phải tiếp tục kháng chiến để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc, một số nhiệm vụ của cách mạng dân chủ chưa thể tiến hành. Cho nên, khác biệt với nền kinh tế nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Việt Nam vẫn còn thành phần kinh tế phong kiến. Việc xác định sự tồn tại của thành phần kinh tế này ở các vùng tự do trong kháng chiên thể hiện sự vận dụng khéo léo, sáng tạo và vô cùng đúng đẳn của Hồ Chí Minh. Cùng với đó, từ kết quả nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và điều kiện lịch sử đất nước, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa các thành phần kinh tế đại diện cho chế độ kinh tế mới ở các vùng tự do.
Việc nhận diện cơ cấu cụ thể của nền kinh tế nhiều thành phần không những dựa vào tính quy luật chung, mà còn dựa vào hoàn cảnh đặc thù trong hoàn cảnh đặc thù. Điều đó đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong tăng gia sản xuất, tạo căn cứ khoa học cho hoạch định chính sách kinh tế đúng đắn, góp phần quan trọng đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 :
Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những hình thức sở hữu chính trong nền kinh tế Việt Nam ở miền Bắc, bao gồm: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động, sở hữu của người lao động riêng lẻ, một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư
• Tương ứng với các hình thức sở hữu đó là nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm: "năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân).
B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
D- Tư bản của tư nhân.
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản'
Như vậy, khác với thời kỳ kháng chiến, trong chế độ dân chủ mới không còn thành phần kinh tế phong kiến, do thực hiện cải cách ruộng đất đã tiêu diệt chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất và nông dân đã trở thành người cày có ruộng, chủ sở hữu ruộng đất. Đồng thời, các thành phần kinh tế còn lại cũng có những thay đổi về vị trí và vai trò trong nền kinh tế. Kinh tế hợp tác xã không những trở nên phổ biến, vững chắc hơn, mà còn mở rộng phạm vi kinh doanh. Xu hướng phát triến của kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ theo hướng chủ nghĩa xã hội đã hình thành rõ nét. Kinh tế tư bản tư nhân đã hoạt động trong điều kiện mới, việc bóc lột đã được điều tiết và giới hạn.
Kinh tế quốc doanh đã có bước phát triển mới, từ chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội, đã trở thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa xã hội, có vai trò "lãnh đạo trong nền kinh tế và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế. Những nhận định của Hồ Chí Minh về cơ cấu cụ thể của nền Kinh tế nhiều thành phần ở vùng tự do trong kháng chiến và trong chế độ dân chủ mới cho thấy: Hồ Chí Minh không những kiên trì bảo vệ mà còn bổ sung, phát triển quan điểm kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách bộ phận cấu thành quan trọng nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với đặc thù lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội của từng giai đoạn cách mạng.
Những quan điểm cụ thể của Hồ Chí Minh về đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa vô cùng to lớn về lý luận, đặc biệt là về phương pháp luận cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhận diện đúng và sử dụng hiệu quả chính sách kinh tế nhiều thành phần trong từng giai đoạn phát triển đất nước cụ thể.
3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Sau Chiến thắng lịch sử 1975, đất nước thống nhất, bước sang thời kỳ cả nước cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đóng góp vào thắng lợi lịch sử đó có phần không nhỏ của công cuộc xây dựng kinh tế ở miền Bắc. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (1976) nhần mạnh: "Nhân dân cả nước ta rất tự hào về những thành quả cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc hơn hai mươi năm qua"! Tuy nhiên, do chưa kịp thời nghiên cứu tác động của tính đặc thủ về hoàn cảnh kinh tế khách quan của dân tộc và đặc điểm của nền kinh tế nhiều thành phần trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận định: "Thăng lợi có ý nghĩa lịch sử là đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột và chế độ người bóc lột người, đã xây dựng chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Từ đó, đẩy nhanh sự phát triển của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời xóa bỏ các thành phần kinh tế được coi là phi xã hội chủ nghĩa bằng các biện pháp mệnh lệnh, làm cho nền kinh tế ngày càng trở nên khó khăn, trì trệ do không phát huy được các động lực phát triển.
Trên cơ sở quán triệt tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước thời kỳ đổi mới, Đại hôi VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khăng định rõ tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội cho rằng: "Xuất phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhưng rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, chúng ta chủ trương: đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vôn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác" Đồng thời chỉ ra: "Ở nước ta, các thành phần đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và Khu vực tập thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và các vùng núi cao khác"!
Kế thừa và phát triển quan điểm về nền kinh tế nhiều thành phần của Đại hội VI, Đại hội VII nêu rõ: "Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại hình sở hữu cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng.
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác không có điều kiện đầu tư kinh doanh. Khu vực quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Các xí nghiệp quốc doanh tồn tại và phát triển dưới hình thức 100% vốn nhà nước hoặc hình thức doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải và tích lũy trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có thời hạn cho mt số cơ sở thật sự cần thiết.
Những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì Nhà nước chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời có chính sách giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động.
Kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phát triển rộng rãi và đa dạng trong các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hóa khác nhau, trên cơ sở tự nguyện góp vốn, góp sức của những người lao động. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Một hộ gia đình có thể tham gia các hợp tác xã khác nhau và có quyền rút ra khỏi hợp tác xã theo điều lệ.
Ở nông thôn, trên cơ sở tăng cường vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của hộ xã viên, các hợp tác xã hướng hoạt động vào những khâu và lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn kinh doanh tập thể; cùng với chính quyền và các đoàn thể chăm lo các vấn đề xã hội và xây dựng nông thôn mới.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Các hộ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận. Luật pháp quy định cụ thể việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất.
Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng
Kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức.
Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghê mà luật pháp
Không cấm. Nhà nước có thể liên doanh bằng nhiều hình thức với tư nhân trong và ngoài nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước.
Kinh tế gia đình không phải là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển mạnh.
Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể liên kết thành các liên hiệp hoặc tập đoàn kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, trên cơ sở hiệu quả kinh tế và cùng có lợi.
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hóa tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh'
Đại hội VIII tiếp tục khẳng định: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lầm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triên các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh... Thực hiện những chủ trương, chính sách sau đây đối với từng thành phần kinh tế:
Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bấy đầy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiêm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan hệ đến quốc phòng - an ninh. Doanh nghiệp nhà nước nói chung có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiến bộ, kinh doanh có hiệu quả, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách.
Lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh; lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
Đổi mới và tăng cường hoạt động của kinh tế nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Phát huy vai trò trung tâm kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa - xã hội của doanh nghiệp nhà nước trong nông, lâm, ngư nghiệp, nhất là ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý,v.v. của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài.
Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã.
Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước. Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài; bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh"! kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân". Đại hội cũng chỉ rõ những thành phần kinh tế ở nước ta trong giai đoạn này bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đại hội X của Đảng xác định còn 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội XI, XII chỉ rõ 4 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thế, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Tổng kết 35 năm đổi mới, Đại hội XII tiếp tục cụ thể hóa đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh mới. Đảng ta nhấn mạnh: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển' Trong bối cảnh mới, kinh tế nhà nước có vai trò chủ yêu là "công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ồn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đăng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh tế tập thể, các hợp tác xã, tố hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững.
Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao.
Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu"
Như vậy, kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam trên cơ sở phân tích đặc điểm của từng bước quá độ. Từ đó, từng đại hội trong thời kỳ đổi mới không những nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, mà còn xác định rõ cơ cấu các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho hoạch định và thực thi đúng đắn các chính sách đối với các thành phần kinh tế.
Để góp phần thực hiện quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bạn có thể thực hiện các hành động cụ thể từ vị trí công tác của mình như sau:
1. Nâng cao nhận thức chính trị và tư tưởng:
- Tổ chức các buổi thảo luận, hội thảo, hoặc lớp học về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao nhận thức và hiểu biết của đồng nghiệp về mục tiêu và con đường phát triển của đất nước.
- Tích cực tham gia và vận động mọi người tham gia các hoạt động chính trị, phong trào quần chúng do Đảng và Nhà nước tổ chức.
2. Phát triển kinh tế bền vững:
- Thúc đẩy áp dụng các mô hình kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, và các hình thức kinh tế hỗ trợ lẫn nhau trong cộng đồng và doanh nghiệp.
- Hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp và nông nghiệp dựa trên công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường.
3. Cải cách hành chính và quản lý:
- Đề xuất và thực hiện các cải cách hành chính nhằm tăng cường tính minh bạch, hiệu quả và giảm bớt quan liêu.
- Xây dựng và duy trì môi trường làm việc công bằng, không tham nhũng, và tạo điều kiện cho sự phát triển của mọi thành viên trong tổ chức.
4. Phát triển nguồn nhân lực:
- Tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp.
- Khuyến khích tinh thần học hỏi và sáng tạo, thúc đẩy nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ mới vào công việc.
5. Xây dựng và bảo vệ văn hóa dân tộc:
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
- Chống lại các ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam.
6. Tham gia các hoạt động xã hội và từ thiện:
- Khuyến khích và tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, góp phần giảm bớt sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Hỗ trợ các chương trình phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống cho người dân.
Bằng cách thực hiện những hành động cụ thể này từ vị trí công tác của mình, bạn có thể góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra.
Câu 11. Vận dụng của Đảng ta từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng HCM về phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trình độ phát triển kinh tế còn lạc hậu. (Phương hướng nhiệm vụ, giải pháp: trang 125, 127: Văn kiện tập 2)
Bài 17, Mục 1, trang 341
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin:
Theo Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi bàn về LLSX, lý luận chủ nghĩa Mac-lenin chỉ rõ: Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất, kỹ thuật của nền sản xuất cùng con người- với những tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, ý thức...sử dụng các yếu tố vật chất kỹ thuật đó để sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trong mọi nền sản xuất, con người luôn là yếu tố quyết định. V.I Lênin cho rằng: “ Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là giai cấp công nhân, là người lao động”. Con người với vai trò là yếu tố quyết định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là những con người chung chung, trừu tượng mà là con người của một thời đại kinh tế nhất định. Đó là những con người có tri thức, có kỹ năng, có sức khoẻ, có ý thức lao động cho mình cho cộng đồng và phải được tổ chức chặt chẽ, khoa học.Trong thời đại ngày nay- thời đại cách mạng khoa học và công nghệ; thời đại chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức(tiếp cận từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất), con người vẫn là yếu tố quyết định đến năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh; đến tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
Là hình thái kinh tế xã hội tiến bộ, cao hơn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cần có cơ sở vật chất kỹ thuật và người lao động với trình độ có khả năng tạo ra năng suất lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ giành được thắng lợi triệt để khi giai cấp vô sản viết lên lá cờ của chủ nghĩa tư bản dòng chữ “năng suất lao động”.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để phát triển lực lượng sản xuất lên tầm cao mới, trước hết phải kế thừa trình độ mới nhất của lực lượng sản xuất mà nhân loại đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin chỉ rõ: “Không có kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có một tổ chức nhà nước có kế hoạch khiến cho hàng chục triệu người phải tuân theo hết sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và phân phối sản phẩm, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội được”.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế mà tiểu nông chiếm đa số như nước Nga thì "Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Nhưng không thể chỉ đóng khung ở nguyên lý chung đó. Cần phải cụ thế hóa nguyên lý đó. Một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp, đó là điện khí hóa cả nước".
Để có lực lượng lao động mới, đú khả năng làm chú những tư liệu sản xuất hiện đại, V.I.Lênin cho răng: cần thực hiện cách mạng văn hóa, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa của người lao động. Để rút ngắn quá trình này, không những cân chủ động sử dụng, mà còn phải tích cực học tập chuyên gia tư sản. V.I.Lênin nhấn mạnh: "Nhiệm vụ phát triền lực lượng sån xuất có đòi hỏi phải sử dụng ngay lập tức, một cách rộng rãi và trong mọi lĩnh vực, các chuyên gia khoa học và kỹ thuật mà chủ nghĩa tu bản đã để lại cho chúng ta", bởi lẽ "Không có sự chi đạo của các chuyên gia am hiều các lĩnh vực khoa học, ky thuật và có kinh nghiệm, thì không thế nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xă hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được".
Đồng thời, “Người cộng sản không được sợ “học” các chuyên gia tư sản, kể cả những thương gia, những nhà tư bản nhỏ tham gia hợp tác xã và các nhà tư bản khác... hãy làm tốt hơn các chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình; hãy biết dùng cách này hay cách khác mà đẩy mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên, mà phát triển sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp. Cho nên suy tính về “học phí”, chớ có sợ phải trả đắt, miễn là thu được kết quả tốt".
Sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt đối với hoàn cảnh đặc thù nước Nga, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đối với các dân tộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ trình độ kinh tế lạc hậu.
Quan điểm của Hồ Chí Minh
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Trong xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng tới phát triển các thành tố của lực lượng sản xuất, bao gồm phát triển nhân tố con người; nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, phát triển và khai thác tốt các yếu tố tư liệu sản xuất.
Từ cách tiếp cận, "Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra. Người lao động sáng tạo ra của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triễn", Hồ Chí Minh cho rằng, cần phát huy nhân tố con người trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó "công nhân phải có tinh thần làm chủ nước nhà, làm chủ xã hội, phải có tinh thần trách nhiệm cao, làm cái gì phải làm cho tốt và phải giữ vững kỷ luật lao động”, đồng thời người lao động phải có văn hóa cao để sử dụng được
kỹ thuật hiện đại, từ đó "ta phải đào tạo cán bộ, cán bộ phải có văn hóa làm gốc. Nếu ta muốn dùng máy móc mà máy móc ngày một thêm tinh xảo, thì công nhân cũng phải có trình độ ky thuật rất cao không kém gì kỹ sư, phải biết tính toán nhiều".
Hồ Chí Minh coi trọng sån xuất máy móc với hai ý nghĩa quan trọng, thứ nhất: máy móc tạo ra năng suất lao động cao để có nhiều của cải nuôi sống nhân dân; thứ hai: giúp người lao động đỡ cực nhọc. "Xây dựng chủ nghĩa xă hội đễ cho đời sống toàn dân được ấm no, hạnh phúc. Muốn no thì phải sån xuất nhiều gạo. Muốn ấm thì phải sản xuất nhiều vải. Muốn có gạo, có vải thì nông nghiệp không thể để mãi như hiện nay mà phải có máy móc. Máy móc là do các chú làm. Phải có nhiều máy và máy tốt”.
Theo Hồ Chí Minh, "Máy móc là chủ chốt của tư liệu sån xuất. Dùng máy móc phải tập trung đông người. Do đó, để sản xuất, thì sức lao động hóa ra tập thể. Dùng máy móc tái sản xuất gấp 10, gấp 100, mà người ta lại ít khó nhọc hơn". Từ đó, công nghiệp cần xác định rõ việc trang bị công cụ sản xuất cho nền kinh tế mà trước hết cho nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm. Trong Thư gửi Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh bộ Nghệ An ngày 21-7-1969, Hồ Chí Minh viết: "Công nghiệp và thủ công nghiệp phải sản xuất nhiều công cụ làm đất, tưới tát, vận chuyển,v.v... phải cung cấp nhiều hàng tiêu dùng tốt và rẻ cho nhân dân. Phải quản lý tốt để tăng năng suất lao động và phải chống các tệ lãng phí, tham ô". Người khẳng đinh: "vì vậy phải chế tạo nhiều máy móc để thế cho công người làm".
Phát triển công nghiệp trước hết phải nhằm phục vụ cho nông nghiệp. Theo Hồ Chí Minh, phát triển công nghiệp nặng phải trang bị máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu,... cho nông nghiệp, phát triển công nghiệp nhẹ cũng là nhằm chế biến các sa phẩm của nông nghiệp và cung cấp hàng tiêu dùng thiết yếu cho nông thôn. Tuy nhiên, không thể nóng vội trong thực hiện công nghiệp hóa.
Bên cạnh coi trọng nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất phải hướng tới xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Trong bài trả lời phỏng vấn của báo Người công nhân (Anh) và trong Báo cáo Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 18-12-1959, Hồ Chí Minh đã phác thảo mô hình cơ cấu kinh tế của đất nước là: “Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”
Quan điểm của ĐCS Việt Nam về phát triển LLSX trong thời kỳ quá độ (Trang 347)
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm phát triển lực lượng sản xuất từng bước xây dựng cơ sở vất chất cho chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt. Điều này được thể hiện rõ thông qua cương lĩnh chính trị, nghị quyết của Đảng ở các kỳ đại hội.
Sau khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1954), Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, nội dung chủ yếu là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mang vè quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học, kỹ thuật; cách mạng tư tưởng, văn hóa, trong đó cách mạng khoa học, kỹ thuật là then chốt; coi công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ năm 1991 của Đảng xác định chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng có đặc điểm: “Do nhân dân làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; …..” và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội IV của Đảng (12-1976) tiếp nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và cách mạng khoa học, kỹ thuật để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Mặc dù đã thu được những kết quả nhất định, song do nhận thức chưa đầy đủ cùng tư tưởng chủ quan, nóng vội trong thực hiện, nên đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tác động tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó nhận thức rõ hơn tính quy luật của phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đại hội căn cứ vào đặc điểm lịch cụ thể của đất nước trong chặng đường đầu của quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã thực hiện điều chỉnh nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất là xây dựng những tiền đề kinh tế cần thiết cho công nghiệp hóa và “xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo
Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới, từ những tiên để đã được tạo ra, Đại hội VIII khẳng định: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Mục tiêu về phát triển lực lượng sản xuất là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”
Đại hội X đã xác định nhiệm vụ chủ yếu là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Đại hội XI nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất trong nhiệm kỳ mới là phải “đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”, trong đó, “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững”
Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta khẳng định: “Phát huy nh tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ vì năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người ở Đi hội XII được tiếp cận toàn diện và hệ thống hơn. Đảng tiếp ta khẳng định vai trò của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế đất nước: “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế...”
Gần nhất, Đại hội XIII của Đảng xác định những mục tiêu thiên nhiên kỷ quan trọng của đất nước, cũng nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất trong nhiệm kỳ mới là phải “đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
Như vậy, có thể thấy rằng, phát triển lực lượng sản xuất luôn là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.
(Phương hướng nhiệm vụ, giải pháp: trang 125, 127: Văn kiện tập 2)
Thu hút tối đa nguồn lực đầu tư, đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng nguồn lực, nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước. Các nguồn lực của nền kinh tế phải được kiểm kê, đánh giá, thống kê, hạch toán đầy đủ để quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, hiệu quả và bền vững. Áp dụng nguyên tắc thị trường trong quản lý, khai thác, sử dụng và phân bổ các nguồn lực. Khuyến khích, thu hút đầu tư ngoài ngân sách phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông.
Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, thông thoáng. Tiếp tục phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị, nhất là trong ngành, lĩnh vực then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh,
bền vững, đa dạng cả về quy mô, chất lượng. Hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn trong nước, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế gắn với xây dựng thương hiệu doanh nghiệp. Xây dựng và phát triển các định chế tài chính hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; hỗ trợ chuyển đổi hộ sản xuất, kinh doanh thành doanh nghiệp. Điều chỉnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia và thể hiện tính liên ngành, liên vùng; xây dựng chương trình hỗ trợ chuyển đối số cho doanh nghiệp Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động; tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%. Đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã, gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của thành viên.
Chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, có mô hình quản trị hiện đại, có chuỗi cung ứng toàn cầu, có tác động lan tỏa và kết nối chặt chế với khu vực kinh tế trong nước; phát triển cụm
liên kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Xây dựng các tiêu chí về đầu tư để lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn. Xây dựng chính sách khuyến khích, ưu đãi vượt trội mang tính cạnh tranh quốc tế đối với các dự án lớn, quan trọng để thu hút được các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đặt trụ sở và thành lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển, trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Có chính sách khuyến khích hợp tác, chuyển giao công nghệ dựa trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện. Không xem xét mở rộng, gia hạn hoạt động đối với những dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên.
(Phần Ngoài sách giáo trình) Liên hệ thực tiễn???
Hiện nay, chúng ta đang có những bước tiến vượt bậc về kinh tế - xã hội. Xong, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thế giới và tác động của cách mạng 4.0, đòi hỏi thời gian tới mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cá nhân phải phát huy vai trò trách nhiệm để tiếp tục đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển lực lượng sản xuất, cụ thể như sau:
Trước hết, nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng tư liệu sản xuất, cải tiến, đổi mới công cụ lao động.
Con người và công cụ lao động là những bộ phận cơ bản của lực lượng sản xuất. phát triển lực lượng sản xuất đồng nghĩa với phát triển người lao động và công cụ lao động. Thông qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tư liệu sản xuất, vật chất, vật tư trang thiết bị hiện có.
Từng cơ quan, đơn vị phải xây dựng cơ chế quản lý nhất là cơ chế quản lý về con người phù hợp để khuyế khích cán bộ, công chức phát huy hết khả năng tinh thần, trách nhiệm trong công việc. Có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để nâng cao chất lượng tay nghề của người lao động.
Quá trình lao động cũng phải không ngừng đổi mới công cụ lao động, bởi công cụ lao động quyết định năng suất lao động. Trong thời đại cách mạng 4.0 hiện nay, không thể có năng suất lao động cao nếu như không có công cụ lao động hiện đại. Đó là cánh tay nối dài tri thức, trí tuệ của con người. Giúp cho quá trình lao động sản xuất vật chất của con người được dễ dàng, tạo ra nhiều của cải vật chất hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong xã hội.
Bên cạnh đó phải tiếp tục nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, công nghiệp vào trong quá trình sản xuất, tạo ra năng suất là động cao.
Đối với mỗi cá nhân phải không ngừng nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới, phát huy sáng kiến cải tiến công nghệ, kỹ thuật trong lao động, sản xuất, trong việc thực hiện nhiệm vụ cơ quan, đơn vị, địa phương. Là cán bộ công chức xã phải sử dụng thành thạo vi tính và ứng dụng các phần mềm vi tính để đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ.
Trong công tác Không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Có tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được phân công Xây dựng phẩm chất đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên, công dân gương mẫu. Có ý thức Kỷ luật lao động. Chấp hành nghiêm các quy định của địa phương, cơ quan nơi cư trú, công tác.
Câu 12. Vận dụng của Đảng ta từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Leennin, tư tưởng HCM về kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Bài 17, Mục 3, trang 361-371 (Nhóm Đã BS đủ toàn bộ nội dung từ sách vào)
Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về kinh tế đối ngoại trong TKQĐ lên CNXH
Trên cơ sở nắm vững xu hướng vận động khách quan của quan hệ kinh tế quốc tế trong chủ nghĩa tư bản hiện đại và đặc thù của thực tiễn ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã nhận thức rõ sự cần thiết và đề xuất cách sử dụng kinh tế đối ngoại để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở phạm vi quốc gia – dân tộc, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội buộc phải được thực hiện trong mối quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa khác. V.I.Lênin nêu rõ: “mục đích của chúng ta là: trong vòng vây tư bản chủ nghĩa, chúng ta phải lợi dụng lòng tham lam của bọn tư bản đối với lợi nhuận và sự thù địch giữa tơ-rớt này với tơ-rớt khác, để tạo ra những điều kiện khiến cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa tồn tại được; mà nước Cộng hòa ấy không có những quan hệ thế giới thì không tồn tại được, cho nên trong những điều kiện hiện nay, nó phải gắn liền sự tồn tại của bản thân mình với những quan hệ tư bản chủ nghĩa”. Từ đó, “Chúng ta phải biết dựa vào có thể củng cố địa vị kinh tế của chúng ta - dù đây là điều thật kỳ những đặc điểm của thế giới tư bản và lợi dụng lòng tham lam của bọn tư bản đối với nguyên liệu, để giành lây những điều lợi lạ - trong giới tư bản. Nhiệm vụ đó có vẻ lạ đời thật: làm thế nào mà một nước xã hội chủ nghĩa lại có thể dựa vào chủ nghĩa tư bản để cải thiện tình hình của mình? Nhưng chúng ta đã thây điều đó trong chiến tranh. Trong chiến tranh chúng ta đã thăng, không phải vì chúng ta là kẻ mạnh hơn, mà là vì, tuy yêu hơn, song chúng ta đã biết lợi dụng sự thù địch giữa các nước tư bản”.
Trong những năm đầu của xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, các nước tư bản chủ nghĩa chưa thật sự muốn thiết lập những quan hệ kinh tế bền vững với nước Nga Xôviết. Tuy nhiên, dựa vào những nhân tố khách quan, V.I.Lênin đã nhận thức rõ: “Có một sức mạnh lớn hơn nguyện vọng, ý chí và sự quyết tâm của bất cứ chính phủ hay giai cấp thù địch nào, sức mạnh đó là những quan hệ kinh tế chung của toàn thế giới, chúng bắt buộc họ phải tiếp xúc với chúng ta.
Các biện pháp chủ yếu để phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm thực hiện độc quyền ngoại thương và chế độ tô nhượng. Sở dĩ nhà nước phải nắm độc quyền ngoại thương trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vì: “không nắm được độc quyền đó, chúng ta sẽ không thể nào “thoát khỏi được” sự chi phối của tư bản nước ngoài bằng cách nộp “công vật” cho chúng”. Độc quyền ngoại thương giúp ngăn chặn tư bản nước ngoài mua và mang đi tất cả những vật quý của đất nước. Phát triển ngoại thương giúp cho ổn định tiền tệ, thúc đẩy phát triển công nghiệp và gia tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước. Trong điều kiện khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước lạc hậu sau chiến tranh việc “mua máy móc, thì chính là chúng ta mua để xây dựng nền sản xuất của mình.
V.I.Lênin cho rằng, thực hiện chế độ tô nhượng thông qua liên minh với tổ chức độc quyền của những nước tiên tiến có vai trò đặc biệt quan trọng để khôi phục và phát triển công nghiệp nước Nga sau nội chiến, “vì cuộc khủng hoảng kinh tế của chúng ta sâu sắc đến nỗi chúng ta không thể tự lực khôi phục được kinh tế bị tàn phá của chúng ta nếu không có thiết bị và viện trợ kỹ thuật của nước ngoài. Chỉ giản đơn nhập những thiết bị đó thôi thì không đủ. Có thể tô nhượng trên những nguyên tắc rộng rãi hơn nữa, có lẽ tô nhượng cho những xanh-đi-ca đế quốc lớn một phần tư vùng dầu mỏ Ba-cu, một phần tư vùng dầu mỏ Grô-dơ-nơi, một phần tư các khu rừng tốt nhất của chúng ta, sao cho có thể bảo đảm được cho chúng ta có được thiết bị tối tân nhất mà thiết lập được cơ sở cần thiết; mặt khác, nhờ đó chúng ta nhận được thiết bị mà chúng ta cần đến cho phần còn lại. Bằng cách đó, chúng ta có thể đuổi kịp một đôi chút, dù chỉ một phần tư hay một nửa, những xanh-đi-ca tiền tiến hiện đại của những nước khác”.
Trong điều kiện thời bình, nhiệm vụ chuyên sang thuế lương thực gắn liền chặt chẽ với các tô nhượng. “Thông qua các tổ nhượng, chính quyền vô sản có thể đảm bảo cho mình có được những hiệp định với những nước tư bản tiền tiến, và sự phát triển của công nghiệp của chúng ta - không có sự phát triển này, chúng ta không thể tiếp tục tiến lên trên con đường đi tới chế độ cộng sản - là phụ thuộc vào những hiệp định đó”, đồng thời, thực hiện chế độ tô nhượng còn góp phần “tạo cho chính quyền của giai cấp vô sản có khả năng tiến hành ở bên dưới việc trao đổi tự do với nông dân...
Để phát huy vai trò của chế độ tô nhượng, theo V.I.Lênin cần phải có biện pháp nâng cao trách nhiệm của người nhận tô nhượng trong cải thiện đời sống công nhân trước hết trong xí nghiệp tô nhượng đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài bởi đó là điều kiện quan trọng để nâng cao năng suất lao động đảm bảo người nhận tô nhượng phải tôn trọng pháp luật của nước nhận đầu tư; nghiêm chỉnh tuân theo những quy tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước nhận đầu tư và của nước đầu tư. Đồng thời, V.I.Lênin cho rằng, “chế độ công ty hợp doanh là chế độ duy nhất có thể thật sự cải thiện bộ máy kém cỏi của Bộ dân ủy ngoại thương, vì với chế độ này, thương nhân nước ngoài và thương nhân Nga làm việc bên cạnh nhau. Nếu ngay trong những điều kiện như thế mà chúng ta không biết học tập một chút, học tập thật sự và học tập đến nơi đến chốn, thì như thế dân tộc chúng ta là một dân tộc ngu dốt đến tuyệt vọng”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại trong TKQĐ lên CNXH
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức rõ sự cần thiết khách quan của hội nhập quốc tế để phát triển dân tộc. “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”. Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”.
Mở cửa kinh tế đối với Việt Nam vừa là nhu câu, vừa là điều kiện quan trọng để phát triển và đưa đất nước đi lên, đặc biệt trong điều kiện một nước nghèo, sản xuất chưa phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nhiều tiềm năng trong nước chưa được phát huy. Vì thế, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một khi đã vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nhiều tiềm năng trong nước chưa độc lập, Việt Nam sẽ đứng với tất cả các nước bâu bạn”, và khi trả lời phỏng vấn nhà báo Standley Harrison phóng viên báo Telepress, Hồ Chí Minh đã nói: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”.
Người chủ trương chuộc lại dần dần những cơ sở kinh tế mà người Pháp đã bỏ vốn ra gây dựng trước cách mạng nhưng cần thiết cho nền kinh tế quốc gia Việt Nam; hoan nghênh tư bản Pháp đầu tư khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác, mời chuyên gia nước ngoài dù từ Pháp, Mỹ hay Nga, Trung Quốc đến giúp kiến thiết quốc gia với điều kiện chính là họ phải thừa nhận nền độc lập của nước ta.
Mặc dù khẳng định vai trò quan trọng của phát triển kinh tế đối ngoại đối với phát triển kinh tế trong quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, giúp đất nước nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, song theo Hồ Chí Minh, ngoại lực là quan trọng, nội lực mới có tính quyết định, vì vậy, “phương châm của ta hiện nay là: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ”.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là chỉ dẫn có tính phương pháp luận cần được bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn phát triển của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh mới của thế giới và đất nước.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc trong TKQĐ lên CNXH
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng cố gắng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại nhằm từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trước hết là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Quá trình đổi mới, đồng thời là quá trình từng bước vận dụng tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Đảng ta thông qua các kỳ đại hội Đảng. Mười năm trước đổi mới (1976-1986) là thời gian Việt Nam tiến hành công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Bên cạnh những thuận lợi sau khi giành được độc lập, thống nhất Tổ quốc, Việt Nam cũng phải đối diện với nhiều thách thức. Giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trên thế giới và khu vực diễn ra sự chuyển biến sâu sắc. Quan hệ chính trị quốc tế có những những thay đổi và tác động mạnh mẽ đến chiến lược đối ngoại, hội nhập của các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI với tinh thần “nhìn thẳng vào s thật”, “nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đảng đã đánh giá khách h quan tình hình đất nước, thừa nhận những sai lâm trong xây dựng và phát triển là “chủ quan, duy ý chí” và đề ra chủ trương đổi mới toàn diện. Đại hội đã rút ra bài học kinh nghiệm về sự cần thiết “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”; nhận thức được xu thê mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế, xã hộ khác nhau cũng là những điều kiện rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó, Đảng ta chủ trương “sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đại hội VI nêu rõ: “Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phân quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. “Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp t quốc tế về khoa học kỹ thuật. Thông qua hợp tác để nhanh chóng nắm bắt các thành tựu khoa học, kỹ thuật, tránh lãng phí do nghiên cứu trùng lắp. Gắn chặt hợp tác khoa học, kỹ thuật với hợp tác kinh tế...
Bước vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo chính quyền, chế độ chính trị, xã hội thay đổi. Tình hình Liên Xô hết sức khó khăn, phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, tại Đại hội đại biểu trường quốc tế hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VII chủ trương: “Đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí ở các thị trường thuộc và với các bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo ở chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã cụ thể hóa nhiệm đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các nghị, hợp tác và phát triển. Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh”.
Như vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng xác định một cách cơ bản, toàn diện đường lối hội nhập từ nguyên tắc, mục tiêu, phương châm và định hướng lớn cũng như những nội dung cụ thể. Đó là những vấn đề căn cốt để Đảng tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức và sáng tạo trong chỉ đạo thực tiễn quá trình triển khai nhiệm vụ, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Nhận định về tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn của thời đại sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức, Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều thuận lợi để phát triển đất nước. Trong bối cảnh đó, Đảng ta đã xác định: mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đông quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Như vậy, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng nhất, đồng thời thực hiện “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.
Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đăng, hợp tác, cùng có lợi... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích c nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát huy tối là nguồn lực con người là quan trọng nhất”. Theo đó, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII tiếp tục năm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” với thực hiện nhiệm vụ trọng tâm: “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế”.
Liên hệ thực tiễn
Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới cho thấy, đường lối mở cửa, hội nhập do ĐH VI của Đảng đề ra đã được các Đại hội tiếp tục bổ sung, phát triển và đã đạt được một số thành tựu nhất định:
Một là, từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, thuận lợi cho công cuộc đổi mới:
˗ Có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên LHQ, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”
˗ Là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng như LHQ, ASEAN, APEC, ASEM, WTO…
˗ Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng CS và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng.
˗ Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng.
˗ MTTQVN và các tổ chức hữu nghị của nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con ng VN ra thế giới.
Hai là, chúng ta đã tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để đẩy mạnh CNH-HĐH và phát triển KTXH:
˗ Đã ký 15 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 3 FTA thế hệ mới.
˗ Có quan hệ KT-thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ, tổng kim ngạch XNK đến nay đã đạt khoảng 600 tỷ USD, gấp khoảng 120 lần so với những năm đầu của thời kỳ đổi mới,
˗ Đã thu hút được hơn 400 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó đã giải ngân được khoảng 250 tỷ USD…
˗ Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, hiện nay, chúng ta đã chủ động đóng góp có trách nhiệm vào sự nỗ lực chung của quốc tế trong phòng, chống đại dịch Covid-19, đồng thời tranh thủ được sự hỗ trợ của quốc tế về vắcxin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan trọng vào việc phòng chống đại dịch Covid-19 và phục hồi, phát triển KTXH.
Ba là, đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước:
˗ Các vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, giữ vững đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác, thúc đẩy phát triển KTXH, đồng thời góp phần vào việc củng cố hoà bình, ổn định trong khu vực.
˗ Đối với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, chúng ta luôn giương cai ngọn cờ hoà bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan kiểm soát bất đồng, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Bốn là, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hoà bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới:
˗ Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều HN quốc tế lớn và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách UV k thường trực HĐ Bảo an LHQ, ChỦ tịch luân phiên ASEAN, Chủ nhà HN cấp cao ASEM, HN thượng đỉnh APEC, diễn đàn Kinh tết thế giới về ASEAN…, đã cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng giữ gìn hoà bình của LHQ ở Châu Phi.
˗ Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hoà hiếu và nhân văn của nước ta đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của VN ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Đại hội XIII đã khẳng định, làm cho “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tại HN Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện NQ ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ngày 14/12/2021, đồng chí TBT Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại HCM, mang đậm bản sắc dân tộc đó là: mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân; Đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; Biết nhu, biết cương, biết thời, biết thế, biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tuỳ cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”.
Tóm lại, Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới cho thấy, đường lối mở cửa, hội nhập do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề đã được các Đại hội tiếp tục bổ sung, phát triển. Đường lối đó đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh mới của kinh tế và chính trị thế giới, để phát triển các quốc gia, trong đó có Việt Nam, không thể áp dụng mô hình kinh tế đóng, đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội và vượt qua thách thức để phát triển, phải tiếp tục vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thu hút ngoại lực để bồi bổ nội lực thông qua mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại nhằm từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Liên hệ thực tiễn 2 (Nguồn GPT)
Liên hệ thực tiễn từ nội dung văn kiện "Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam"
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày 01/02/2021 tại Thủ đô Hà Nội. Nội dung văn kiện đại hội này đã thể hiện rõ những chủ trương, đường lối quan trọng trong việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một số điểm nổi bật bao gồm:
1.Phát triển kinh tế số và hội nhập quốc tế:
Nội dung văn kiện: Khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thực tiễn: Các doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực ứng dụng công nghệ số, phát triển các nền tảng thương mại điện tử, từ đó mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
2.Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại:
Nội dung văn kiện: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
Thực tiễn: Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), từ đó mở rộng cơ hội xuất khẩu và nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
3.Thu hút đầu tư nước ngoài:
Nội dung văn kiện: Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án công nghệ cao, thân thiện với môi trường và có giá trị gia tăng cao.
Thực tiễn: Việt Nam đã cải thiện môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là nhiều tập đoàn lớn đã chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư, xây dựng các nhà máy sản xuất hiện đại.
4.Phát triển kinh tế biển và vùng ven biển:
Nội dung văn kiện: Chiến lược phát triển kinh tế biển với trọng tâm là các ngành công nghiệp hàng hải, du lịch biển, khai thác dầu khí và khoáng sản biển.
Thực tiễn: Việt Nam đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng ven biển, phát triển các cảng biển hiện đại, thúc đẩy du lịch biển và khai thác tài nguyên biển một cách bền vững.
Ý nghĩa và thực tiễn vận dụng
Thúc đẩy phát triển kinh tế: Các chủ trương, đường lối về kinh tế đối ngoại của Đảng đã giúp Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và tham gia sâu rộng vào các chuỗi giá trị toàn cầu.
Cải thiện môi trường kinh doanh: Việc thực hiện các chính sách cải cách kinh tế, đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi đã giúp tăng cường lòng tin của nhà đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tăng cường hợp tác quốc tế: Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế quốc tế, ký kết và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do, qua đó mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao vị thế và uy tín trên trường quốc tế.
Tóm lại, việc vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng và thực hiện các chính sách, chủ trương đúng đắn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 13. Lý giải công nghiệp hóa- hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Quan điểm CNH-HĐH ở nước ta
Quan điểm CNH-HĐH ở nước ta trong tình hình hiện nay được thể hiên qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng cộng sản VN và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Thực chất của CNH-HĐH ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề về vật chất, kỹ thuật, về con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp- những yếu tố cơ bản của LLSX cho XHCN.
Quá trình CNH-HĐH được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH do tính tất yếu khách quan và tác dụng như sau:
Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH:
Mỗi phương thức sản xuất của xã hội chỉ có thể xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng nhất định và chính cơ sở vật chất kỹ thuật này là một trong những nhân tố quan trọng nhất để xác định phương thức sản xuất đó thuộc loại hình xã hội lịch sử nào và thuộc thời đại kinh tế nào. CNH là quá trình tạo dựng nên cơ sở vật chất kỹ thuật đó.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, một mặt là sừ kế thừa những thành quả đạt được trong xã hội TBCN, mặt khác nó được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở nhửng thành tựu của cuộc cách mạng KHKT hiện đại và theo yêu cầu của chế độ mới, đó chính là một nền công nghiệp có công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Các nước đã qua giai đoạn phát triển TBCN bước vào thời kỳ quá độ xây dựng CNXH tiến hành thực hiện quá trình tái công nghiệp hóa nhằm điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ hiện đại theo yêu cầu của chế độ XH mới.
Các nước có nền kinh tế chưa phát triển cao nhất là các nước nông nghiệp lạc hậu, khi tiến lên CNXH, tiến hành CNH-HĐH XHCN để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN là một tất yếu khác quan. Không tiến hành CNH thì không thể xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, không thể thực hiện phân công lao động xã hội, không có CNXH.
Xuất phát từ yê cầu phát triển kinh tế-xã hội, nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân.
Một quan niệm cần lưu ý là khi định hướng XHCN trong quá trình CNH-HĐH ở nước tam cần chú ý tới các quan điểm chỉ đạo cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài của CNH-HĐH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng-an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo đúng định hướng XHCN.
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với nước ngoài; kết hợp với quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
Là sự nghiệp toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cùng với kinh tế hợp tác xả dần thành nền tảng kinh tế quốc dân thống nhất.
Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần, kiệm xây dựng đất nước, tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít vốn, tạo ra nhiều việc làm tranh thủ đi tắt, đón đầu ở những khâu quyết định.
Lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ trừ những tổ chức có nhiệm vụ chủ yếu phục vụ quốc phòng, an ninh và phúc lợi xã hội.
CNH-HĐH ở nước ta được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng CS VN, sự quản lý và điều hành là của nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tác dụng của CNH-HĐH
Thành tựu:
Đường lối CNH, HĐH tiếp tục được Đảng ta bổ sung, hoàn thiện, phát triển phù hợp tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước và bối cảnh thế giới. Từ Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đến nay, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã đạt được những kết quả quan trọng:
Một là, CNH, HĐH đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, cải thiện chất lượng tăng trưởng, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình.
Hai là, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực; công nghiệp có đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế.
Cơ cấu các ngành kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng CNH, HĐH. Cơ cấu kinh tế vùng có sự chuyển dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng, tăng cường liên kết, kết nối vùng.
Ba là, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp ổn định, bền vững; ngành dịch vụ phát triển mạnh, chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Một số Hạn chế:
Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH ở nước ta cũng còn những hạn chế: Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt; năng lực độc lập, tự chủ của nền kinh tế còn thấp, nội lực còn yếu; mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chưa đạt mục tiêu đề ra; công nghiệp phát triển thiếu ổn định, chưa bền vững và chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH; chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số vẫn còn khoảng cách xa so với mục tiêu đề ra và so với các nước phát triển; đô thị hóa còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng phát triển chưa đồng bộ và hiện đại; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa CNH, HĐH với các vấn đề văn hóa, xã hội, con người...
Quan điểm của đảng ta
Đây là một trong các mục tiêu tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
CNH-HĐH được xem là nhiệm vụ trung tâm vì:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới, sáng tạo; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là coi phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt; chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thống nhất và bao gồm hai mặt: cải tạo và xây dựng; hai mặt đó có quan hệ chặt chẽ và phải được tiến hành đồng thời, trong đó xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài. Người thường xuyên chỉ rõ: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta phải tiến hành đồng thời việc cải tạo và xây dựng trên tất cả các mặt: chính trị và kinh tế, kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, vǎn hoá và xã hội. Từ đó, Hồ Chí Minh đã xác định rõ vị trí, vai trò, tính tất yếu của công nghiệp hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Dựa vào kinh nghiệm công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa điểm xuất phát và mục đích cuối cùng, mục đích trước mắt và mục đích lâu dài, giữa thời kỳ quá độ với những bước quá độ nhỏ..., vào đầu nǎm 60, Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách rõ ràng, khúc triết, ở tầm khái quát lý luận cao về tính tất yếu của công nghiệp hoá Việt Nam. Người cho rằng: "Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta... Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách rộng rãi: dùng máy móc cả trong công nghiệp và trong nông nghiệp. Máy sẽ chắp thêm tay cho người, làm cho sức người tǎng thêm gấp trǎm, nghìn lần và giúp người làm người việc phi thường.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá hàm chứa những nội dung thật sự sâu sắc, định hướng chỉ đạo thực tiễn dài hạn. Hồ Chí Minh xác định công nghiệp hoá là một giai đoạn tất yếu, một nội dung bắt buộc của tiến trình đi tới chủ nghĩa xã hội - không tiến hành công nghiệp hoá, không thể có chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó. Cả chủ nghĩa xã hội, và công nghiệp hoá đều phản ánh, ở những mức độ khác nhau, một trình độ vǎn minh trong quá trình phát triển liên tục của nền sản xuất vật chất xã hội. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ vai trò tiến bộ lịch sử của công nghiệp hoá - đó là quá trình thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, giải phóng sức lao động, giải phóng con người, tạo ra những bước đột khỏi trong khai thác tự nhiên. Nói một cách trực tiếp: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân". Hoặc "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ǎn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tǎng, tinh thần ngày càng chưa tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.
Một đặc điểm trong tư duy lý luận Hồ Chí Minh là tính hợp lý, lôgíc và nhất quán cao độ; Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chủ yếu của công nghiệp hoá trong mối quan hệ hữu cơ với mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội. Tách rời mối quan hệ cơ bản đó, công nghiệp hoá sẽ mất phương hướng cụ thể, giáo điều. Hồ Chí Minh xem mối liên hệ giữa mục đích công nghiệp hoá và mục đích của chủ nghĩa xã hội là vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc. Hồ Chí Minh nêu bật mục đích cuối cùng của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đem lại đời sống dồi dào, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân trong buổi nói chuyện với Đại hội Đảng bộ thành phố Hà Nội, Người chỉ rõ: "Muốn bảo đảm đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng công nghiệp nặng. Như thế phải vừa cải thiện đời sống, vừa tích luỹ. Cải thiện đời sống từng bước theo khả nǎng, đồng thời phải tích luỹ để kiến thiết"10. Đây chính là bản chất xã hội của quá trình công nghiệp hoá do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo, là ranh giới để nhận diện công nghiệp hoá trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với công nghiệp hoá diễn ra trong điều kiện chế độ tư bản chủ nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh sử dụng tính từ "xã hội chủ nghĩa" gắn liền với thuật ngữ "công nghiệp hoá". Trong quan niệm của Người, công nghiệp hoá bao giờ cũng có định hướng cụ thể, hàm chứa cả nội dung xã hội và giai cấp. Vì vậy, không có công nghiệp hoá chung chung, mà chỉ có thể; hoặc công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, hoặc là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Bản chất giai cấp sẽ chi phối nội dung, cách lựa chọn bước đi vào các động lực thực hiện quá trình công nghiệp hoá.
Như trên đã xác định, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy luật phổ biến đối với tất cả các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nước ta từ một tiền sản xuất nhỏ đi lên nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cơ bản cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi.
Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một yêu cầu tất yếu khách quan trong tình hình mới; là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước; là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị; lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể; bảo đảm sự hài hòa giữa mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với yêu cầu giữ gìn tiến bộ và công bằng xã hội, bồi đắp và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc, bảo vệ tài nguyên, môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động.
Câu 14. Hãy phân tích và lấy dẫn chứng minh họa về đẩy mạnh CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn ở nước ta hiện nay
Vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn, nông dân đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới”(1). Cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII, Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
Việt Nam là một quốc gia có nền nông nghiệp phát triển khá mạnh (đứng thứ 15 thế giới, thứ hai khu vực Đông Nam Á). Tuy nhiên, để có thể để ngành nông nghiệp phát triển hơn nữa, Việt Nam cần đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp. Đây được xem là rào cản và thách thức rất lớn, tuy nhiên cũng là cơ hội để các doanh nghiệp vươn tầm quốc tế.
Chuyển đổi số là thay đổi phương thức sản xuất, kinh doanh và đời sống nhờ sử dụng dữ liệu và công nghệ số. Chuyển đổi số bao gồm 3 lĩnh vực là “Chính phủ số”, “kinh tế số” và “xã hội số”. Cả 3 lĩnh vực này đều sẽ có tác động rất lớn đến nông nghiệp, nông thôn. Đối với nông dân và người dân nông thôn, hạn chế lớn nhất là thiếu thông tin trong các lĩnh vực sản xuất và đời sống. Chính phủ số và xã hội số sẽ mang lại cơ hội tăng cường khả năng kết nối cho họ với thông tin, xoá nhoà một phần khoảng cách về địa lý, giảm bớt sự phức tạp của các thủ tục hành chính nhiều cấp hiện nay để được sử dụng trực tiếp các dịch vụ công của Chính phủ. Vì vậy, người nông dân sẽ là khách hàng mục tiêu của quá trình chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn.
Chuyển đổi số nông nghiệp là quá trình ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số từ sản xuất đến chế biến, phân phối, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản giữa nông nghiệp số và nông nghiệp truyền thống chính là ở việc áp dụng các công nghệ kỹ thuật số (dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật) vào toàn bộ hoạt động của ngành, làm thay đổi cách thức quản lý, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ truyền thống sang hiện đại và thông minh
Ví dụ về chuyển đổi số nông nghiệp Ở Việt Nam, tập đoàn FPT đã kết hợp cùng Fujitsu, Viện Rau Quả, các chuyên gia Nhật Bản để xây dựng mô hình trồng rau mới. Trong mô hình này, công nghệ Akisai được ứng dụng để kết nối và điều khiển các yếu tố trong trang trại từ xa. Môi trường bên trong nhà kính được theo dõi, quản lý bằng máy tính để tạo ra môi trường tốt nhất cho cây cà chua và xà lách phát triển. Một ví dụ tiêu biểu khác trong việc chuyển đổi số ngành nông nghiệp thành công chính là công ty Vinamilk. Công ty này đã ứng dụng công nghệ IoT vào việc giám sát chăn nuôi. Từ chế độ ăn đến mọi khâu chăm sóc đều được theo dõi cẩn thận theo chuẩn nông nghiệp thông minh. Nhờ đó, khối lượng sữa thu được lên tới 23 lít/con/ngày. Trang trại cũng đã được chứng nhận là trang trại hữu cơ theo chuẩn châu Âu. Hay nền tảng trực tuyến Made in Farm của Bayer kết nối trực tiếp nông dân sản xuất nhỏ với người tiêu dùng hoặc thương nhân. Nền tảng này giúp nông dân và người mua gặp gỡ, thương lượng, giao dịch trực tuyến. Nền tảng này đã có hơn 10 triệu euro giao dịch và kết nối 13 triệu người tiêu dùng
Lợi ích của chuyển đổi số mang lại cho ngành nông nghiệp
Chuyển đổi số giúp giảm thiểu rủi ro, thiệt hại do biến đổi khí hậu.
Nông nghiệp Việt Nam là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất về biến đổi khí hậu, có thể kể đến: bão lũ, dịch bệnh, lưu lượng nước ngọt giảm không đủ để phục vụ sản xuất nông nghiệp, giảm diện tích đất.Hệ quả là làm giảm năng suất, giảm chất lượng sản phẩm và thậm chí thất thu trong nông nghiệp. Ứng dụng công nghệ Data Analytics (phân tích dữ liệu) vào phân tích và quản lý, toàn bộ vùng khí hậu sẽ được cảnh báo rủi ro cho người dân sớm (72 giờ trước khi cơn bão đi qua), từ đó sẽ có biện pháp ứng phó kịp thời
Chuyển đổi số giúp nông dân kết nối trực tiếp với người tiêu dùng.
Thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào các thương lái để mang sản phẩm đến người tiêu dùng thì ngày nay, chuyển đổi số giúp người bán và người mua kết nối trực tiếp với nhau. Điều này đã được chứng minh thực tế trong thời gian dịch Covid-19. Dịch bệnh bùng phát, ảnh hưởng lớn đến lượng tiêu thụ sản phẩm. Nhiều địa phương đã xúc tiến mua bán nông sản qua các kênh thương mại điện tử. Tiêu biểu là tỉnh Bắc Giang, nhờ sự kết nối, mở rộng các kênh tiêu thụ qua sàn thương mại điện tử, vải thiều bán tại thị trường trong nước đạt hơn 131.117 tấn, chiếm tỷ trọng trên 64%. Lượng vải xuất khẩu đạt 72.908 tấn, xấp xỉ 36%.
Nâng cao năng suất lao động
Một vài vùng nông thôn hiện đã áp dụng công nghệ, thay đổi phương thức sản xuất, làm việc trên đồng bằng phương pháp điều khiển từ xa. Thực tế, nhiều địa phương tại Đồng bằng sông Cửu Long đã thí điểm công nghệ 4.0 vào sản xuất nông nghiệp và bước đầu đạt hiệu quả kinh tế cao. Việc canh tác từ khâu làm đất đến việc bón phân, bơm tưới và thu hoạch đều sử dụng các thiết bị hỗ trợ thông minh. Ngoài ra, hệ thống tưới tiêu và giám sát đều được thực hiện qua điện thoại. Những ứng dụng này giúp giảm một nửa chi phí sản xuất và công sức lao động, giảm 50% lượng khí thải nhà kính, tăng năng suất 30%, từ đó giúp tăng thu nhập cho người nông dân
Tăng cường chất lượng sản phẩm nông nghiệp
Các công nghệ ứng dụng trong chuyển đổi số nông nghiệp: Big Data, công nghệ sinh học sẽ giúp bạn phân tích dữ liệu về môi trường, đất đai, ánh sáng và chất lượng các loại cây trồng. Từ đó, người nông dân sẽ có quyết định đúng đắn hơn như lượng phân bón, thời gian canh tác, phụ thuốc bảo vệ thực vật.
Một số đánh giá Đẩy mạnh CNH-HĐH Nông thôn:
Trong suốt tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam, nông nghiệp, nông thôn đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Là quốc gia nông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn nước ta phát triển là nơi sản xuất ra nhiềusản phẩm thiết yếu cho đời sống, với nhiều ngành sản xuất. Việt Nam là một nước nông nghiệp có đến 70% dân số đang sinh sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Năm 2021, ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm.Cụ thể, về sản xuất lúa, diện tích lúa cả năm ước đạt 7,24 triệu ha, giảm 38,3 nghìn ha so với năm trước do chuyển đổi cơ cấu sản xuất và mục đích sử dụng đất; năng suất lúa ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 1,8 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 43,88 triệu tấn, tăng 1,1 triệu tấn. Về cây lâu năm, trong năm 2021, diện tích trồng cây lâu năm ước tính đạt 3.688,6 nghìn ha, tăng 2% so với năm 2020; về lâm nghiệp, diện tích rừng trồng mới tập trung cả nước ước tính đạt 277,8 nghìn ha, tăng 2,8% so với năm trước; về thủy sản, trong năm 2021 sản lượng thủy sản khai thác ước tính đạt 3.920,8 nghìn tấn, tăng 0,9% so với năm trước…
Trong quá trình công nghiệp hóa đất nước, nông thôn là nguồn cung cấp lao động cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ. Với hơn 70% lao động sinh sống ở nông thôn, hằng năm nguồn lao động ở nông thôn bổ sung cho thị trường lao động ở thành thị, các thành phố rất lớn. Đặc biệt hiện nay, với sự phân bố của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên cả nước, các cơ sở công nghiệp tại các địa phương hằng năm thu hút lực lượng lớn lao động tại địa bàn nông thôn, “ly nông bất ly hương”. Lao động nông thôn được nâng cao trình độ, được trang bị kiến thức, kỹ năng góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý trong phân công lao động xã hội.
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022 Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: bảo vệ các giá trị của nền văn minh lúa nước, bản sắc văn hóa dân tộc cao đẹp.
Từ vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông thôn đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế hàng hóa lớn, hiện đại, nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ có ý nghĩa đối với việc chuyển biến về chất các mặt đời sống xã hội của cư dân nông thôn mà còn có ý nghĩa chung đối với sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn bao gồm hai vấn đề. Một là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Đây là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường lao động, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các khâu của sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trên thị trường. Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn,chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trong giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc, vật tư phục vụ nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở nông thôn.
Trong những năm qua, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn được Đảng xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X ngày 05-8-2008 chỉ rõ: Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến mạnh mẽ, tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nông nghiệp có bước chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành sớm hơn gần hai năm so với kế hoạch đề ra, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(6).
Năm 2021: ngành nông nghiệp tăng 3,18%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 3,88%, đóng góp 0,02 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 1,73%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm. Các thành tựu khoa học - công nghệ được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp như: sản xuất rau, trồng hoa, quả trong nhà lưới, nhà kính, tưới tự động, chăn nuôi theo công nghệ chuồng kín với hệ thống làm mát, điều khiển chuồng nuôi, máng ăn và nước uống tự động, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung ứng dụng công nghệ cao; tăng tỷ trọng chăn nuôi và thủy sản theo hướng chuyển từ coi trọng tăng số lượng sang tập trung vào nâng cao chất lượng, giá trị…
Cùng với kết quả đạt được trong phát triển nông nghiệp, nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, nông thôn thay đổi diện mạo, nâng tầm vị thế Việt Nam trong cộng đồng thế giới.
Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đánh giá “Xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng, với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và toàn dân, về đích sớm hơn so với mục tiêu Nghị quyết đề ra; góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng kinh tế công nghiệp và dịch vụ; thu nhập và đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn không ngừng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, số hộ khá và giàu tăng”(7).
Báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 và một số điểm mới cho việc thực hiện Chương trình giai đoạn 2021 - 2025 đến tháng 7-2021, cả nước đã có 64,6% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 194 đơn vị cấp huyện (chiếm 29%) thuộc 51 tỉnh, thành phố đạt chuẩn nông thôn mới; có 12 tỉnh, thành phố đã có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 04 tỉnh đã được công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2020 đạt 41,7 triệu đồng/người/năm, gấp 1,7 lần so với năm 2015 và gấp 3,25 lần so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều khu vực nông thôn năm 2020 còn khoảng 7,1%, giảm 4,7% so với năm 2016…
Bên cạnh kết quả đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn một số hạn chế, bất cập: ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chậm, chưa thích ứng được với đòi hỏi của thị trường, sản phẩm làm ra chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh ở thị trường trong và ngoài nước thấp; chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn còn thấp, lao động còn manh mún, tự do, tùy tiện, chưa có tính kỷ luật trong lao động; kết cấu hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, thống nhất. Đặc biệt, ở vùng sâu, vùng xa có nhiều tiềm năng, lợi thế, hệ thống giao thông còn nhiều khó khăn; môi trường nông nghiệp, nông thôn ngày càng bị ô nhiễm…
Một số giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Một là, thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị
Nhận thức đúng sẽ có hành động đúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”(9).
Các cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương quán triệt sâu sắc nghị quyết, chỉ thị của Đảng về vị trí, vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trọng tâm là Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 16-6-2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 17-11-2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới…
Trên cơ sở đó, các cơ quan, ban ngành các địa phương đẩy mạnh thông tin tuyên truyền đến người dân quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nướcvề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức, hành động; thay đổi tư duy, nếp sống, thói quen của người dân về sản xuất nông nghiệp, nông thôn truyền thống sang làm kinh tế nông nghiệp, gắn sản xuất với thị trường, gắn với nhu cầu của thị trường.
Cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, chính sách vào từng lĩnh vực, hoạt động, khơi dậy tính sáng tạo của người dân trong quá trình sản xuất, kinh doanh, tích cực hưởng ứng tham gia vào các chương trình, cuộc vận động xây dựng nông thôn mới.
Nghị quyết số 19-NQ/TW chỉ rõ: Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, góp phần nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ, học vấn cho nông dân và cư dân nông thôn để đổi mới, sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ nông sản, làm giàu từ nông nghiệp, nông thôn.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng hàng nông sản
Nghị quyết số 19-NQ/TW nhấn mạnh: Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cáccơ quan, đơn vị, địa phương căn cứ vào đặc điểm tình hình, điều kiện mỗi khu vực, địa bàn, xác định phương án phát triển phù hợp, hiệu quả. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân vay vốn, đầu tư mua sắm trang thiết bị kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các cơ quan, ban ngành có liên quan phải thường xuyên đồng hành cùng người dân trong quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt trong khâu tiêu thụ sản phẩm ra thị trường; gắn kết chặt chẽ giữa nhà nông - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học, ổn định, bền vững ở tất cả các khâu sản xuất, kinh doanh và chế biến các sản phẩm nông nghiệp. Phân công, giao nhiệm vụ cho bộ phận, lực lượng chuyên trách theo dõi, giúp đỡ người nông dân kinh doanh, sản xuất hàng nông sản xuất khẩu ra thị trường thế giới. Ứng dụng công nghệ cao vào từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể, thực hiện chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp.
Thực tế những năm qua, hàng nông sản của nông dân được mùa nhưng lại khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, vì vậy, trong quá trình thu hoạch sản phẩm rất cần sự vào cuộc của cơ quan, ban, ngành có liên quan, nhất là sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh trong liên doanh, liên kết với doanh nghiệp, với thị trường thế giới, bảo đảm sự lưu thông sản phẩm hàng hóa của người nông dân được thuận lợi.
Cùng với đó, cán bộ phòng nông nghiệp ở các huyện tăng cường hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ người dân về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy hải sản, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra, tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Phối hợp chặt chẽ với người dân làm kinh tế trang trại, phát triển những mô hình sản xuất, kinh doanh, khảo sát, đánh giá thị trường, xây dựng phương án giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề phát sinh. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về mặt thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, tuyệt đối không gây khó khăn, cản trở người dân và doanh nghiệp. Doanh nghiệp và người dân phát huy đạo đức kinh doanh theo đúng quy định pháp luật, không ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân ở nông thôn.
Ba là, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển đô thị hóa
Nghị quyết số 19-NQ/TW nhấn mạnh: Xây dựng nông thôn mới phát triển toàn diện, bền vững gắn với đô thị hóa, bảo đảm thực chất, đi vào chiều sâu, hiệu quả, vì lợi ích của người dân. Theo đó, cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu theo hướng xây dựng nông thôn kiểu mẫu, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội gắn với khôi phục, phát triển các làng nghề truyền thống, giải quyết việc làm cho lao động, nhất là thanh niên ngay tại địa phương.
Từng bước nâng cao trình độ tay nghề kỹ thuật của lao động nông thôn trong sản xuất những mặt hàng thủ công, đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của thị trường hiện nay.
Gắn phát triển kinh tế - xã hội nông thôn với bảo vệ môi trường sinh thái, các khu du lịch, nghỉ dưỡng thu hút khách tham quan. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông theo hướng văn minh, hiện đại, bảo đảm an toàn, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn luôn bảo đảm sinh kế của người nông dân, giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân.
Đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa các vùng nông thôn về các lĩnh vực, hoạt động sản xuất, kinh doanh để tăng cường sự tin cậy, hiểu biết nhau, hỗ trợ, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Phát huy vai trò của Hội Nông dân Việt Nam trong xây dựng nông thôn mới, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là bước đi quan trọng, đúng đắn, phù hợp với tình hình hiện nay để từng bước hiện thực hóamục tiêu, nhiệm vụ đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta đạt được cả “ba cao” về năng suất, chất lượng, giá trị theo chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại.
Câu 15. Bằng nhận thức lý luận và thực tiễn, hãy làm rõ các vấn đề liên quan đến chế độ (loại hình) sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ quan hệ với tự nhiên mà còn quan hệ với nhau. Quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất ấy gọi là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm ba nhân tố: quan hệ giữa người với người về sở hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý và về phân phối sản phẩm. Trong đó, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất là nhân tố có tính quyết định, đồng thời ba nhân tố đó tác động lẫn nhau.
Khái niệm về tư liệu sản xuất, sở hữu, sở hữu toàn dân: (có thểm tham khảo them giáo trình)
Theo quan điểm kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư liệu sản xuất là tài sản vật chất đầu vào cần thiết được sử dụng để tổ chức sản xuất và tạo ra các sản phẩm có giá trị phục vụ cho con người. Với phản ánh tính chất mà C.Mác nêu ra, những hình thái tư liệu sản xuất được thể hiện rõ nét trong chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội, trong đó quan hệ sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của quan hệ sản xuất. Chủ sở hữu có thể thống nhất ở một người, có thể tách bạch ở nhiều người; có thể là sở hữu riêng của tư nhân (tư hữu) hay sở hữu chung của cộng đồng, của xã hội (sở hữu xã hội). Chủ thể sở hữu có thể là thể nhân, có thể là pháp nhân. Đối tượng sở hữu là các yếu tố đầu vào của sản xuất và các sản phẩm được tạo ra từ các yếu tố đầu vào đó. Đối tượng sở hữu luôn biến đổi do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì đối tượng sở hữu chuyển mạnh từ đối tượng sở hữu hữu hình là các tư liệu sản xuất sang đối tượng sở hữu vô hình là tri thức của loài người, là trí tuệ của con người, là trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, internet vạn vật, thông tin, dữ liệu lớn (big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường... Đối tượng sở hữu vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế tri thức. Chính điều này là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển, là cơ sở để chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất của các yếu tố tổng hợp (TFP), tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, phải coi phát triển khoa học – công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; phải chuyển mạnh từ áp dụng, “bắt chước” công nghệ sẵn có sang đổi mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một đột phá chiến lược. Phải có công nghệ made by Vietnam để tạo ra hàng hóa made by Việt Nam, làm cho Việt Nam phát triển hùng cường. Quan hệ sở hữu là cơ sở, là điều kiện của sản xuất. Nhưng sở hữu không phải là mục tiêu, mục đích của xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là vì con người, giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, bất bình đẳng; con người được tự do, là chủ xã hội, phát triển toàn diện, có cuộc sống hạnh phúc...
Sở hữu chỉ là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho kinh tế - xã hội phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức, quản lý và quyết định quan hệ phân phối. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, chưa đồng đều, thì còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu là một tất yếu khách quan, là đòi hỏi của chính sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế quá độ của nước ta tồn tại đồng thời cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với nhiều hình thức sở hữu và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu) với nhiều hình thức sở hữu, ngoài ra còn tồn tại cả hình thức sở hữu hỗn hợp, là một tất yếu kinh tế do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội quyết định. Lấy mục tiêu giải phóng sức sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội; lấy mục tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội, phát triển đất nước bền vững, sáng tạo, bao trùm; lấy mục tiêu vì con người phát triển tự do, toàn diện, hạnh phúc... làm tiêu chuẩn cho sự tồn tại, phát triển chế độ sở hữu nào, hình thức sở hữu nào. Nội dung kinh tế của sở hữu thể hiện ở lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được hưởng (nhận được) từ đối tượng sở hữu. Lợi ích kinh tế là mục đích của chủ sở hữu. Những lợi ích kinh tế mà đối tượng sở hữu mang lại thì chủ sở hữu không được hưởng toàn bộ, mà chỉ được hưởng một phần, phần còn lại phải đóng góp vào lợi ích chung của toàn xã hội, của đất nước.
Sở hữu thành phương tiện chủ yếu để đạt tới các mục tiêu kinh tế của chủ sở hữu. Các chủ thể sở hữu không chỉ quan tâm tới đối tượng sở hữu, cái mà họ quan tâm hơn là giá trị gia tăng được tạo ra từ các đối tượng sở hữu đó. Để đạt được điều đó, chủ sở hữu phải hết sức quan tâm đối tượng sở hữu nào đem lại sự gia tăng giá trị cao nhất (ngày nay là tri thức, là trí tuệ con người, là trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số…) và làm thế nào, với phương thức nào để đối tượng sở hữu mang lại giá trị gia tăng cao nhất, vì vậy phải hợp lý hóa, tối ưu hóa việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất - kinh doanh v.v… để có hiệu quả kinh tế hợp lý.
Quan hệ sở hữu là quan hệ khách quan do trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất quyết định. Quan hệ sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu là quan hệ bản chất bên trong của quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải vật chất xã hội, nhưng quan hệ sở hữu là quan hệ trừu tượng. Muốn hiện thực hóa quan hệ sở hữu thì phải thể chế hóa bằng quan hệ pháp lý thành chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là sự thể chế hóa có tính chất pháp lý, là nội dung pháp lý của quan hệ sở hữu đang tồn tại khách quan trọng mỗi chế độ xã hội. Quan hệ sở hữu là nội dung bản chất bên trong, chế độ sở hữu là quy định pháp lý để hiện thực hóa quan hệ sở hữu khách quan đó. Hệ thống luật pháp phải thừa nhận các quyền của chủ sở hữu đối với đối tượng sở hữu (cả các nguồn lực đầu vào hữu hình và vô hình, cả các sản phẩm được tạo ra từ các nguồn lực đầu vào đó). Pháp luật quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ sở hữu đối với đối tượng sở hữu và lợi ích do đối tượng sở hữu đó mang lại.
Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền quản lý kinh doanh (quyền sử dụng), quyền thực hiện lợi ích kinh tế, quyền kiểm soát, quyền định đoạt tài sản, quyền chuyển nhượng, mua - bán tài sản (hữu hình và vô hình), quyền thừa kế, cho, biếu, tặng tài sản… Trong đó, có hai nhóm quyền quan trọng là quyền sở hữu và quyền sử dụng. Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ở một chủ thể, hoặc có thể tách rời ở nhiều chủ thể… Hình thức sở hữu là biểu hiện trên bề mặt xã hội của quan hệ sở hữu, thể hiện ra thông qua hoạt động của các chủ thể sở hữu. Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản (sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư bản… và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu) với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời còn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.
Nội dung trên được luận chứng dựa trên những cơ sở sau:
Về vấn đề sở hữu trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ, luôn vận động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất cũ không thể mất đi trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất đó tạo địa bàn cho phát triển chưa được phát triển, những quan hệ sản xuất mới – cao hơn, không thể xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội chưa phát triển đến mức tạo điều kiện để hình thành, phát triển quan hệ sản xuất mới – cao hơn. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội, trong đó quan hệ sở hữu là quan hệ cơ bản nhất của quan hệ sản xuất.
Quá trình sản xuất xã hội là quá trình kết hợp của hai yếu tố: sức lao động và tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động). Phải có chủ sở hữu của hai yếu tố này. Có thể chủ sở hữu thống nhất ở một người, có thể tách bạch ở nhiều người; có thể là sở hữu riêng[4] của tư nhân (tư hữu) hay sở hữu chung[5] của cộng đồng, của xã hội (sở hữu xã hội). Chủ thể sở hữu có thể là thể nhân, có thể là pháp nhân. Đối tượng sở hữu là các yếu tố đầu vào của sản xuất và các sản phẩm được tạo ra từ các yếu tố đầu vào đó. Đối tượng sở hữu luôn biến đổi do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Trong xã hội tư bản đối tượng sở hữu của các chủ tư bản là giá trị tư bản dưới các hình thái: tư bản – tiền tệ, tư bản – sản xuất hay tư bản – hàng hóa. Trước đây, ở các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, nhấn mạnh đối tượng sở hữu là tư liệu sản xuất (sở hữu về tư liệu sản xuất). Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì đối tượng sở hữu chuyển mạnh từ đối tượng sở hữu hữu hình là các tư liệu sản xuất sang đối tượng sở hữu vô hình là tri thức của loài người, là trí tuệ của con người, là trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, internet vạn vật, thông tin, dữ liệu lớn (big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường...
Đối tượng sở hữu vô hình ngày càng chiếm vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế tri thức. Chủ sở hữu nào mà sở hữu được đối tượng sở hữu vô hình càng nhiều càng lớn thì càng có cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh, vì khi sở hữu được những tri thức, trí tuệ con người, trí tuệ nhân tạo, công nghệ tiên tiến hiện đại, công nghệ kỹ thuật số... và vận dụng vào trong quá trình sản xuất thì sẽ tạo ra những hàng hóa chiếm ưu thế vượt trội trên thị trường với năng suất lao động cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá trị cá biệt thấp hơn, sức cạnh tranh cao hơn và thường chiến thắng trong cạnh tranh, thu được lợi ích kinh tế tối đa. Chính điều này là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển, là cơ sở để chuyển mạnh sang sản xuất theo chiều sâu, tăng năng suất của các yếu tố tổng hợp (TFP), tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, phải coi phát triển khoa học – công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; phải chuyển mạnh từ áp dụng, “bắt chước” công nghệ sẵn có sang đổi mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một đột phá chiến lược. Phải có công nghệ made by Vietnam để tạo ra hàng hóa made by Việt Nam, làm cho Việt Nam phát triển hùng cường. Những yêu cầu đó đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học – công nghệ, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả.
Quan hệ sở hữu là cơ sở, là điều kiện của sản xuất[6]. Nhưng sở hữu không phải là mục tiêu, mục đích của xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là vì con người, giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, bất bình đẳng; con người được tự do, là chủ xã hội, phát triển toàn diện, có cuộc sống hạnh phúc... Sở hữu chỉ là phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho kinh tế - xã hội phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức, quản lý và quyết định quan hệ phân phối. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao, chưa đồng đều, thì còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu là một tất yếu khách quan, là đòi hỏi của chính sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Quan hệ sở hữu cũ không mất đi khi trong lòng nó còn dư địa cho lực lượng sản xuất phát triển; quan hệ sở hữu mới chưa ra đời khi điều kiện vật chất của nó chưa xuất hiện. Trong nền kinh tế quá độ của nước ta tồn tại đồng thời cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với nhiều hình thức sở hữu và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu) với nhiều hình thức sở hữu, ngoài ra còn tồn tại cả hình thức sở hữu hỗn hợp, là một tất yếu kinh tế do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội quyết định. Mỗi chế độ sở hữu, mỗi hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và cũng không thể tùy tiện dựng lên hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi và chúng cùng vận động, phát triển trong công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với mục tiêu chung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tất cả vì con người, do con người. Lấy mục tiêu giải phóng sức sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội; lấy mục tiêu hiệu quả kinh tế – xã hội, phát triển đất nước bền vững, sáng tạo, bao trùm; lấy mục tiêu vì con người phát triển tự do, toàn diện, hạnh phúc... làm tiêu chuẩn cho sự tồn tại, phát triển chế độ sở hữu nào, hình thức sở hữu nào. Ở đâu, khi nào mà chế độ tư hữu hay chế độ công hữu hoặc hình thức sở hữu hỗn hợp mà đạt được mục tiêu nêu trên, thì ở đó, khi đó, chế độ sở hữu hay hình thức sở hữu phù hợp đó sẽ tồn tại, phát triển và phát triển cho đến khi không còn phù hợp hay kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ bị xóa bỏ.
Ở nước ta, với mục tiêu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thì vấn đề quan trọng nhất là tìm phương thức thể chế hóa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường sao cho tăng trưởng, phát triển tối ưu; đất nước phát triển bền vững, sáng tạo, bao trùm; nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước, vì vậy, trong nền kinh tế quá độ chế độ sở hữu bao hàm, đan xen cùng tồn tại, cùng phát triển của cả những hình thức sở hữu thuộc chế độ công hữu, của cả những hình thức sở hữu thuộc chế độ tư hữu và hình thức sở hữu hỗn hợp[7]. Trong thời kỳ quá độ này, mỗi hình thức sở hữu đều thể hiện vai trò nhất định trong việc thúc đẩy quá trình giải phóng, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội. Đó là một tất yếu khách quan. Tất yếu kinh tế này được quy định bởi chính trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và điều kiện lịch sử - cụ thể của nước ta trong thời kỳ quá độ quy định. Không thể duy ý chí bằng mệnh lệnh hành chính xóa bỏ chế độ sở hữu cũ, hình thức sở hữu cũ và thúc đẩy hình thành chế độ sở hữu mới, các hình thức sở hữu mới vượt quá lực lượng sản xuất tương ứng. Không thể xóa bỏ ngay chế độ tư hữu một cách chủ quan, duy ý chí vì “không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu. Cho nên…sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”[8]. “Một chế độ xã hội không bao giờ mất đi trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo địa bàn cho phát triển chưa được phát triển, những quan hệ sản xuất mới, - cao hơn, không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”[9]. Ở nước ta, trình độ phát triển lực lượng sản xuất không đồng đều trong các ngành, các vùng, vì vậy, tất yếu còn tồn tại nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Nội dung kinh tế của s hữu thể hiện ở lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu được hưởng (nhận được) từ đối tượng sở hữu. Lợi ích kinh tế là mục đích của chủ sở hữu. Nếu không có lợi ích kinh tế thì sở hữu trở thành vô nghĩa. Những lợi ích kinh tế mà đối tượng sở hữu mang lại thì chủ sở hữu không được hưởng toàn bộ, mà chỉ được hưởng một phần, phần còn lại phải đóng góp vào lợi ích chung của toàn xã hội, của đất nước. Tỷ lệ phân chia này là bao nhiêu do luật pháp quy định, thông qua các chính sách như chính sách thuế và các chính sách khác. Sở hữu thành phương tiện chủ yếu để đạt tới các mục tiêu kinh tế của chủ sở hữu. Các chủ thể sở hữu không chỉ quan tâm tới đối tượng sở hữu, cái mà họ quan tâm hơn là giá trị gia tăng được tạo ra từ các đối tượng sở hữu đó. Bởi vì, giá trị gia tăng ấy là cái bảo đảm sự gia tăng lợi ích kinh tế của chủ sở hữu. Để đạt được điều đó, chủ sở hữu phải hết sức quan tâm đối tượng sở hữu nào đem lại sự gia tăng giá trị cao nhất (ngày nay là tri thức, là trí tuệ con người, là trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số…) và làm thế nào, với phương thức nào để đối tượng sở hữu mang lại giá trị gia tăng cao nhất, vì vậy phải hợp lý hóa, tối ưu hóa việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất - kinh doanh v.v… để có hiệu quả kinh tế hợp lý. Điều này đã được C.Mác dự báo: trình độ của lực lượng sản xuất càng phát triển cao thì việc sản xuất ra sản phẩm hàng hóa càng ít phụ thuộc vào số lượng lao động và thời gian lao động đã chi phí, mà phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học - công nghệ và sự ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất. Hệ thống máy móc tự động, công nghệ tiên tiến, hiện đại sẽ dần thay thế lao động trực tiếp trong quá trình sản xuất. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, công nhân lại đứng cạnh quá trình ấy. Khi ấy tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt và đối với nghề này thì việc vận dụng khoa học vào sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn thành một quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về lượng sẽ quy vào một phần nhỏ, còn về chất được chuyển hóa thành một yếu tố cần thiết, nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến. Điều đó càng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao hơn nữa. Cơ sở, điều kiện để xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, khi mà kinh tế tri thức đã trở thành phổ biến. Như vậy, không thể nóng vội xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi, khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chưa trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, khi những điều kiện cho sự tiêu vong của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chưa xuất hiện.
Khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa còn phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất thì phải có chính sách phù hợp, khả thi để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của nó.
Kinh tế tư bản tư nhân có công lao lớn trong thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và xã hội hóa sản xuất (đây là điều kiện vật chất - kỹ thuật để tiến lên chủ nghĩa xã hội), nhưng mục tiêu của nó là tối đa hóa lợi nhuận, nên giữa chủ và thợ có mâu thuẫn về lợi ích kinh tế khi phân phối giá trị mới tạo ra thành lợi nhuận và tiền công. Bởi vậy, cần có chính sách sao cho nhà tư bản thu được lợi nhuận thích đáng để họ hăng hái đầu tư, không ngừng phát triển sản xuất - kinh doanh; nhưng mặt khác lại phải điều tiết sự phân phối kết quả sản xuất để đảm bảo “chủ và thợ cùng có lợi”, “công và tư hưởng lợi”, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, như trốn thuế, chuyển giá, trốn đóng bảo hiểm xã hội cho công nhân… Phải lấy tiêu thức thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, bảo đảm đời sống công nhân làm cơ sở để xử lý vấn đề này. Đại hội XII, Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn.
Cần phân biệt: chiếm hữu với sở hữu. Chiếm hữu là độc chiếm lấy một vật gì đó để sử dụng[10]. Chiếm hữu của cải vật chất là hành vi tự nhiên, tất yếu của con người để sinh tồn. Chiếm hữu là quan hệ giữa con người với tự nhiên và là phạm trù vĩnh viễn. Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải vật chất xã hội (chiếm hữu các nguồn lực đầu vào của sản xuất và các sản phẩm được tạo ra từ nguồn lực đầu vào đó). Sở hữu là biểu hiện về mặt xã hội của chiếm hữu. Sở hữu là phạm trù lịch sử, thay đổi theo những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Quan hệ sở hữu là quan hệ khách quan do trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất quyết định. Quan hệ sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sở hữu là quan hệ bản chất bên trong của quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu của cải vật chất xã hội, nhưng quan hệ sở hữu là quan hệ trừu tượng. Muốn hiện thực hóa quan hệ sở hữu thì phải thể chế hóa bằng quan hệ pháp lý thành chế độ sở hữu. Chế độ sở hữu là sự thể chế hóa có tính chất pháp lý, là nội dung pháp lý của quan hệ sở hữu đang tồn tại khách quan trong mỗi chế độ xã hội. Quan hệ sở hữu là nội dung bản chất bên trong, chế độ sở hữu là quy định pháp lý để hiện thực hóa quan hệ sở hữu khách quan đó. Hệ thống luật pháp phải thừa nhận các quyền của chủ sở hữu đối với đối tượng sở hữu (cả các nguồn lực đầu vào hữu hình và vô hình, cả các sản phẩm được tạo ra từ các nguồn lực đầu vào đó). Pháp luật quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ sở hữu đối với đối tượng sở hữu và lợi ích do đối tượng sở hữu đó mang lại. Chế độ sở hữu bao gồm các quyền như quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền quản lý kinh doanh (quyền sử dụng), quyền thực hiện lợi ích kinh tế, quyền kiểm soát, quyền định đoạt tài sản, quyền chuyển nhượng, mua - bán tài sản (hữu hình và vô hình), quyền thừa kế, cho, biếu, tặng tài sản… Trong đó, có hai nhóm quyền quan trọng là quyền sở hữu và quyền sử dụng. Hai nhóm quyền này có thể thống nhất ở một chủ thể, hoặc có thể tách rời ở nhiều chủ thể…
Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có một loại hình sở hữu đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo, xác định bản chất của chế độ xã hội đó; đồng thời còn các loại hình sở hữu khác cùng tồn tại.
Mỗi loại hình sở hữu có nhiều hình thức sở hữu với mức độ thể hiện khác nhau, biến đổi theo những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, tùy theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ quản lý quá trình sản xuất ở mỗi giai đoạn. Hình thức sở hữu là biểu hiện trên bề mặt xã hội của quan hệ sở hữu, thể hiện ra thông qua hoạt động của các chủ thể sở hữu.
Cho đến nay, nhân loại đã chứng kiến có sự tồn tại và phát triển của hai kiểu chế độ sở hữu: chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) và chế độ sở hữu xã hội (chế độ công hữu). Chế độ tư hữu có các hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản (sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư bản… Chế độ công hữu có các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể… Trong nền kinh tế thị trường còn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế.
Trong nền kinh tế quá độ ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ tư hữu với nhiều hình thức, cả chế độ công hữu với nhiều hình thức và cả hình thức sở hữu hỗn hợp (như công ty (doanh nghiệp) cổ phần, công ty TNHH, hình thức hợp tác công tư (PPP)...) .
Giải quyết vấn đề sở hữu phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất đòi hỏi, chứ không thể duy ý chí, chủ quan, nóng vội. Ph. Ănghen viết: “…Bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa”[11].
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại, phát triển của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân đều có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế… Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên CNXH. Với vai trò "nhạc trưởng", "bà đỡ" như vậy, Nhà nước giữ vị trí, vai trò quyết định, vai trò chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH có nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, trong đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.
Câu 16. Cho ví dụ về quá trình sản xuất giá trị thặng dư và tính tư bản bất biến, tư bản khả biến, tư bản cố định, tư bản lưu động (dựa trên các dữ liệu nêu trong ví dụ).
Bài 13, Trang 228
Giá trị thặng dư là một yếu tố phản ảnh bản chất của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, làm cho sản xuất tư bản chủ nghĩa khác biệt với sản xuất hàng hóa giản đơn. Vậy cụ thể, giá trị thặng dư được tạo ra như thế nào, là câu hỏi cần phải giải quyết. Trước khi đi vào nội dung cụ thể, hãy cũng nhắc lại một số khái niệm cơ bản liên quan.
Khái niệm (Sách giáo trình)
Tư bản bất biến
Tư bản khả biến
Tư bản cố định
Tư bản lưu động
Giá trị thặng dự:
Phân tích ví dụ
Giả sử nhà tư bản là chủ thể sx mặt hàng sợi. Để có thể sản xuất sợi... (trang 229)
Phân tích tư bản bất biến-khả biến:
Trong ví dụ trên, nếu xét theo phương diện vai trò đsôi với quá trình tạo giá trị và giá trị thặng dư, thì tư bản bất biến là: tư bản dùng để tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất, cụ thể là tư bản để mua bông (10 USD), khấu hao máy móc (2 USD);
Còn tư bản khả biến – bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động – tiền trả cho công nhân (3 USD cho 8 giờ làm việc). Trong quá trình sản xuất lao động, người công nhân bằng lao động trừu tượng của mình tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động của họ (6 USD cho 8 giờ làm việc). Và nhờ đó mà đối với nhà tư bản, lượng giá trị thu về lớn hơn lượng giá trị ứng ra.
Phân tích tư bản cố định – tư bản lưu động: không tìm thấy trong sách giáo trình về nội dung này
Tư bản cố định
Khái niệm
Tư bản cố định là bộ phận tư bản tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng… về hiện vật tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó bị khấu hao từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm mới được sản xuất ra.
Đặc điểm
Tư bản cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh, không thay đổi hình thái vật chất. Với đặc điểm này, các doanh nghiệp chỉ cần bỏ vốn ban đầu để đầu tư hình thành nên tư bản cố định, sau đó có thể khai thác sử dụng tư bản cố định trong thời gian dài. Để quản lý tư bản cố định, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra tình trạng sử dụng của tài sản. Điều này không có nghĩa là không chỉ quản lý, giữ gìn về mặt vật chất của nó mà còn phải duy trì khả năng hoạt động bình thường của tài sản do đó phải thường xuyên bảo dưỡng, thay thế sửa chữa những bộ phận hư hỏng để đạt hiệu suất sử dụng tối đa.
Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.
Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc,…
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, những máy móc, thiết bị được sản xuất ra có giá cả thấp hơn và có hiệu suất lớn hơn, làm cho những máy móc, thiết bị cũ giảm giá trị ngay khi giá trị sử dụng của nó vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới suy giảm một phần.
Bởi vậy, việc thu hồi nhanh giá trị tư bản cố định có ý nghĩa rất quan trọng trong cạnh tranh trên thương trường. Trong điều kiện đó, buộc các nhà tư bản phải tìm mọi cách để khấu hao nhanh tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định thường được tính rất cao ngay từ những năm đầu chế tạo sản phẩm, lợi dụng giá sản phẩm cao của đầu chu kỳ sản phẩm, sau đó giảm dần tỷ lệ khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm ở cuối chu kỳ của nó. Quy mô sản lượng ban đầu càng lớn càng có lợi cho việc thu hồi giá trị tư bản cố định. Những yêu cầu đó không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách dễ dàng.
Bởi vậy, các nhà tư bản, một mặt, tìm cách phát triển hệ thống tự động hoá linh hoạt, cùng với những máy móc thiết bị tương ứng để có thể tạo ra nhiều dạng sản phẩm hoặc những sản phẩm chuyên môn hoá theo các đơn đặt hàng khác nhau; mặt khác, phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ để dễ dàng đổi mới tư bản cố định trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, các nhà tư bản vẫn tiếp tục sử dụng những biện pháp cổ điển như tăng cường độ lao động, tổ chức lao động theo ca kíp, tiết kiệm chi phí bảo quản và chi phí cải thiện điều kiện lao động của người công nhân. Bằng cách đó nhằm thu hồi nhanh giá trị tài sản cố định đã sử dụng và góp phần rút ngắn khoảng cách lạc hậu về các thế hệ kỹ thuật và công nghệ.
Do vậy, ta có thể thấy, tư bản cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và luân chuyển dần dần từng phần vào trong giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mỗi chu kỳ kinh doanh. Hay nói cách khác, cứ sau mỗi chu kỳ kinh doanh vốn cố định được tách thành hai phần: một phần chuyển vào giá thành kinh doanh của chu kỳ kinh doanh này, và phần còn lại sẽ được cố định chờ để luân chuyển cho các chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Cứ như thế cho đến khi nào tư bản cố định hết thời gian sử dụng thì vốn cố định mới chấm dứt một vòng tuần hoàn lưu chuyển giá trị.
Tư bản lưu động
Khái niệm
Tư bản lưu động là bộ phân tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động,… giá trị của nó lưu thông toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.
Đặc điểm
Tư bản lưu động là biểu hiện bằng tiền về toàn bộ tài sản lưu động của doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi tham gia vào kinh doanh, tài sản lưu động luôn vận hành, thay thế và chuyển hóa lẫn nhau qua các công đoạn của quá trình kinh doanh.
Chỉ tham gia vào một chu kỳ kinh doanh. Với đặc điểm này, dòi hỏi đoanh nghiệp luôn phải duy trì một khối lượng vốn lưu động nhất định để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh tiến hành liên tục.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm tăng lên.
Việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động sẽ góp phần tăng hiệu quả sử dụng của vốn tư bản, tiết kiệm tư bản ứng trước, đồng thời tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
So sánh tư bản cố định và tư bản lưu động
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất, căn cứ tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tư bản cố định chuyển giá trị dần dần, từng phần một vào trong sản phẩm mới, tư bản lưu động chuyển giá trị ngay một lần và toàn bộ vào trong sản phẩm mới sau quá trình sản xuất. Sự phân chia này giúp chúng ta thấy được quá trình chuyển giá trị của tư bản cố định và tư bản lưu động vào trong sản phẩm mới như thế nào, đồng thời có căn cứ để tính toán chi phí sản xuất.
Tư bản cố định
Tư bản lưu động
Không thay đổi hình thái tồn tại trong quá trình kinh doanh
Có sự chuyển hóa về hình thức tồn tại qua các công đoạn của quá trình kinh doanh
Tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh
Về cơ bản, chỉ tham gia một chu kỳ kinh doanh
Luân chuyển giá trị dần từng phần vào trong giá trị sản phẩm mới dưới hình thức khấu hao tài sản cố định
Luân chuyển toàn bộ giá trị ngay một lần vào giá trị sản phẩm mới
Thường chiếm tỷ lệ cao hơn so với tư bản lưu động
Thường chiếm tỉ lệ thấp hơn so với tư bản cố định
Tốc độ chu chuyển chạm hơn so với tư bản lưu động
Tốc độ chu chuyển nhanh hơn so với tư bản cố định
Ý nghĩa
Việc phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ diễn ra đối với tư bản sản xuất, căn cứ vào tính chất chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới. Tuy sự phân chia tư bản cố định và tư bản lưu động thật sự chưa làm rõ bản chất bóc lột của tư bản nhưng có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của doanh nghiệp trong việc bảo tồn và tái sản xuất tư bản cố định và lưu động, xác định đúng những chi phí hình thành sản xuất hàng hóa. Trong quản lý kinh tế và trong sản xuất, doanh nghiệp cần có cách thức tác động phù hợp với tính chất vận động của từng loại tư bản để nâng cao hệ số sử dụng của tư bản.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị, nhanh tiếp cận được thành tựu mới của khoa học, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động.
Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước, mặt khác, tăng tốc độ chu chuyển tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm tăng lên.
Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay
Tư bản cố định về hình thái
Căn cứ vào hình thái vật chất
- Tư bản cố định hữu hình là những tài sản có hình dáng vạt chất cụ thể như công trình kiến trúc, trang thiết bị, phương tiện vận tải…
- Tư bản cố định vô hình là dạng tài sản không có hình dáng vật chất cụ thể như là bằng phát minh sáng chế, chi phí đầu tư mua bản quyền, phần mền vi tính, văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu,…
Căn cứ vào quyền sở hữu
- Tư bản cố định do doanh nghiệp sở hữu là tài sản cố định mua bằng vốn của mình, vốn vay hoặc do được biếu tặng những tài sản này giúp doanh nghiệp chủ động trong hoạt động kinh doanh.
- Tư bản cố định thuê ngoài là những tài sản chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định, bao gồm:
- Tài sản cố định thuê hoạt động có đặc điểm hết thời hạn thuê hoàn trả tài sản cho người chủ, người thuê chịu các chi phí thuê còn khấu hao tài sản do chủ tài sản thực hiện
- Tài sản cố định thuê tài chính có đặc điểm: thời hạn thuê tối thiểu >60% tuổi thọ tài sản thuê, số tiền thuê tài sản thấp nhất bằng giá trị tài sản thuê, người thuê được quyền mua lại tài sản thuê với giá thấp hơn giá trị còn lại của tài sản
Căn cứ vào tình trạng sử dụng
- Tư bản cố định đang được khai thác sử dụng là những tài sản trực tiếp làm tăng năng suất, năng lực hoạt động của doanh nghiệp.
- Tư bản cố định chờ thanh lý là những tài sản hư hỏng, tài sản lạc hậu về công nghệ kỹ thuật, tài sản không tương thích.
Căn cứ vào công dụng
-Tư bản cố định dùng trực tiếp cho khâu sản xuất
-Tư bản cố định dùng cho công tác quản lý
-Tư bản cố định dùng khâu tiêu thụ hàng hóa
-Tư bản cố định dùng cho hoạt động phúc lợi
Về giá trị
Phương pháp quản lý này gắn liền công việc tính khấu hao tài sản cố định và quản lý, sử dụng khấu hao của doanh nghiệp. Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh tư bản cố định bị hao mòn là một vấn đề mang tính tất yếu khách quan. Trong quá trình quản lý và sử dụng tư bản cố định, để tái tạo tư bản cố định doanh nghiệp phải tiến hành khấu hao tư bản cố định.
Khấu hao tư bản cố định là sự tính toán số tiền biểu hiện mức hao mòn tư bản cố định. Số tiền khấu hao tài sản là một yếu tố của chi phí kinh doanh và được bù đắp khi doanh nghiệp có thu nhập. Số tiền khấu hao được doanh nghiệp trích lại để hình thành quỹ khấu hao nhằm tái tạo tư bản cố định. Cũng cần thấy rằng khả năng tái tạo tư bản cố định từ quỹ khấu hao phụ thuộc rất lớn vào mức độ chính xác của việc tính toán mức khấu hao tài sản. Số tiền khấu hao tích lũy được sau khi tư bản cố định hoàn thành một vòng tuần hoàn mà không đủ để tái tạo tư bản cố định, thì hậu quả là tư bản cố định của doanh nghiệp không được bảo toàn.
Do vậy, muốn thực hiện bảo toàn tư bản cố định của doanh nghiệp một trong những biện pháp quan trọng đó là doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp tính khấu hao thích hợp để sao cho vừa phản ánh đúng mức hao mòn hữu hình, vừa khắc phục được sự mất giá do hao mòn vô hình gây ra.
Tư bản lưu động
Phân loại
Để quản lý về hiện vật, doanh nghiệp cần tiến hành phân loại tư bản lưu động, từ đó đưa ra những cách thức quản lý sao cho có hiệu quả. Thực tế có các cách phân loại tư bản lưu động cơ bản như sau:
Căn cứ vào hình thái biểu hiện
- Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền tạm ứng, tiền trong thanh toán…
- Nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm…
Căn cứ vào công dụng
- Tư bản lưu động dự trữ kinh doanh: nguyên vật liệu, công cụ lao động, phụ tình thay thế.
- Tư bản lưu động trong sản xuất: sản phẩm sở dang, bán thành phẩm, chi phí trả trước…
- Tư bản lưu động trong lưu thông: thành phẩm, hàng hóa, các khoản thế chấp, các khoản tiền tạm ứng trong thanh toán…
Cách thức quản lý
Quản lý vốn bằng tiền
Trong quá trình kinh doanh, hằng ngày các doanh nghiệp luôn phải duy trì một lượng tư bản bằng tiền mặt nhất định, với mục đích:
Thỏa mãn nhu cầu giao dịch, mua sắm nguyên vật liệu
Thực hiện các hoạt động đầu tư
Dự phòng để đối phó với những trường hợp phát sinh đột xuất mà doanh nghiệp không lương trước.
Như vậy, vốn bằng tiền trở thành yếu tố quan trọng không kém gì so với các yếu tố khác trong kinh doanh( vật liệu, hàng hóa,…) và trong nhiều khi là tiền đề có các yếu tố đó. Do vậy, doanh nghiệp cần phải có kế hoạch tài chính để xác định nhu cầu vốn bằng tiền phục vụ cho kinh doanh hằng tháng, thậm chí hằng tuần.
Quản lý các khoản phải thu
Đây là số vốn của doanh nghiệp nhưng bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng, và do vậy, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu số vốn này chiếm dụng ở mức độ lớn, thì doanh nghiệp sẽ thiếu vốn bằng tiền để phục vụ kinh doanh. Vì thế, doanh nghiệp phải có những biện pháp để giảm thấp các hệ số chiếm dụng vốn, rút ngắn kỳ thu tiền bình quân trên cơ sở áp dụng các phương thức thanh toán sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp, đồng thời linh hoạt trong đàm phsan để thu hồi nợ một cách nhanh nhất.
Quản lý hàng tồn kho
Tùy theo tính chất của từng loại hàng hóa tồn kho mà doanh nghiệp có biện pháp quản lý cho thích hợp.
Đối với nguyên vật liệu, công cụ lao động, hàng hóa: để thực hiện hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thường phải hình thành một mức dự trữ thường xuyên về nguyên vật liệu, công cụ lao động, hàng hóa ở mức tối thiểu cần thiết tương ứng với quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn cần thiết để đầu tư hình thành nên những loại tài sản này tối thiểu thường xuyên cần thiết tương đương với quy mô nhất định.
Đối với thành phẩm: nếu quản lý số vốn này không tốt thì tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, gây tác động tiêu cực đến tốc độ luân chuyển và tình hình sử dụng vốn ở các khâu trước. Do vậy, doanh nghiệp cần phải thường xuyên kiểm tra tình hình tiêu thụ, tồn kho thành phẩm, khả năng chi trả của người mua, giám sát những người chi trả không đúng hạn để tốc độ lưu chuyển vốn ở khâu này nói riêng và tốc độ lưu chuyển toàn doanh nghiệp nói chung.
Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động mặc dù không chỉ ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức quản lý sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.