Lớp tập huấn nghiệp vụ
TẬP TÀI LIỆU
CHỤP ẢNH
BIÊN TẬP BÁO
CHÍ
Ngọc Trân biên soạn
Hậu Giang
15/12 – 16/12 2008
Nghề biên tập trong thế kỷ 21
Biên tập là một nghề bí ẩn. Ở Việt Nam, không ai dạy nghề biên tập cho
chuyên nghiệp. Dạy viết báo thì có trường, có lớp, nhưng dạy biên tập thì
không. Đó là một sự khiếm khuyết, một lỗ hổng trong đào tạo báo chí.
Biên tập báo chí là một nghề.
Nhưng, thông thường, lãnh đạo các tờ báo chọn ra một số phóng viên hành nghề lâu năm, viết lách tốt và đề nghị họ trở thành
biên tập viên. Thư ký tòa soạn sẽ chỉ dẫn thêm cho họ một số qui định về biên
tập. Vậy là xong. Rồi nghề dạy nghề; hầu như không có ai được đào tạo bài bản về
nghề này.
Xuất phát từ thực tế đó, soạn giả
thu thập một số tư liệu ngoài nước, trong nước, nhớ lại những gì đã được học
với đồng nghiệp trong và ngoài nước cùng kinh nghiệm bản thân viết nên tập tài
liệu nhỏ này, trong đó áp dụng nguyên lý bổ sung chứ không phải loại trừ, thu
nạp cả những cái mới, cái khác nhưng hay và hợp với chúng ta.[1] “Không có cái mới phát sinh từ số không, từ
hư vô. Cái mới hình thành từ cái cũ. Trên cái nền cũ mà người ta xây dựng các
công trình mới” [2] Hãy xem
đây như một viên đá đóng góp vào việc xây dựng nền móng ban đầu cho công tác
đào tạo biên tập viên một cách chính qui.
Tài liệu dựa trên nguyên tắc là
ai cũng có thể bước vào nghề biên tập. Miễn là viết tiếng Việt tốt và được làm
việc trong một tòa soạn. Lẽ dĩ nhiên,
cũng phải yêu thích nghề này và chuyên cần học tập.
Đây là một tài liệu thực hành,
mang tính kỹ thuật. Nhưng nó vẫn phải có cả lý thuyết vì lý thuyết là một cách
để giải thích thực hành. Tài liệu gồm nhiều phần, bao quát từ tổng quan về nghề
biên tập, nhiệm vụ người biên tập cho đến biên tập hình thức, biên tập nội dung
lẫn cách làm việc với phóng viên. Người biên tập được đề cập ở đây chủ yếu là
biên tập viên văn bản (copy editor). Trong khóa học, chúng ta sẽ xem xét chức
năng, nhiệm vụ của vị trí này trong một tòa soạn.
Riêng trong khuôn khổ bài đầu
tiên, chúng ta sẽ thảo luận một vài nội dung trong phần tổng quan về nghề biên
tập: nghề biên tập quan trọng như thế nào; để làm nghề biên tập phải có tố chất
gì; và biên tập viên giữ vị trí nào trong tòa soạn.
Tầm quan trọng của công việc biên tập
Các tờ báo, tạp chí, đài truyền
thanh, đài truyền hình uy tín có một điểm chung: tất cả đều sử dụng những biên
tập viên giỏi. Tay nghề cao của tập thể biên tập viên là một trong những yếu tố
quan trọng nhất tạo nên sức mạnh cho một cơ quan truyền thông. Tuy nhiên, công
chúng lại không biết tới họ vì họ không được ký tên trên các bài báo như phóng
viên.
Và biên tập viên văn bản là một
loại nhà báo hiếm hoi; ít người làm được nghề này. Biên tập viên văn bản thường
dấn thân, toàn tâm toàn ý với công việc, thông minh và yêu chữ nghĩa. Họ có
khuynh hướng muốn làm cho bài vở trở nên chính xác và hay hơn. Họ cũng góp phần
gác cổng về tin tức cho cơ quan truyền thông, tức cho bài nào xuất hiện, bài
nào không.
Hễ có người viết thì có người
biên tập. Người biên tập đọc lại, suy nghĩ, làm cho các tác phẩm đến với công
chúng dễ dàng hơn. Họ có mặt ở mọi nơi: trong các tờ báo ngày, báo tuần, các
nhà xuất bản, tại đài truyền thanh, đài truyền hình, công ty giao tế nhân sự và
quảng cáo. Tại các nước phát triển, họ còn hiện diện trong các cơ quan chính
phủ, trường học và doanh nghiệp bình thường. Hiện nay, có cả người biên tập
thông tin cho các trang web.
Từ trước đến giờ, các nhà báo
được trao giải thưởng vẫn thường thừa nhận và ca ngợi công lao của người biên
tập. Một trong số là nhà báo Mỹ Colin Nickerson. Ông bắt đầu sự nghiệp với chân
phóng viên trong một tuần báo nhỏ. Bốn năm sau đó, ông trở thành phóng viên của
tờ The Boston Globe, và nhanh chóng trở thành thông tín viên ở nước ngoài của
tờ báo nổi tiếng này.
Nickerson cho biết: “Tôi
đã học được rằng việc viết lách khó khăn hơn tôi từng nghĩ rất nhiều.
Cần phải động não và
rất nhiều nỗ lực. Sự khác nhau giữa bài báo hay với bài báo dở chẳng liên quan
gì đến nội dung của bài báo đó… mà điều tạo ra sự khác biệt thường là do có bao
nhiêu tâm huyết và nỗ lực người phóng viên và kế đến là những người biên tập
của anh, chị ta sẵn sàng đổ vào bài.” [3]
Nhưng công việc của biên tập viên
báo chí là gì? Nếu bạn hỏi người bình thường câu này, có thể họ sẽ trả lời: sửa
lỗi các bài viết. Còn nếu bạn trao đổi với một biên tập viên thực thụ, câu trả
lời sẽ khác. Mà không chỉ có một câu. Người này sẽ liệt kê ra hàng loạt công
việc, nào là nghe ngóng, họp bàn về tin tức, chỉ định đề tài, làm việc với
phóng viên, sửa bài, chỉ dẫn dàn trang v.v…
Có một số người đã tìm cách định
nghĩa nghề biên tập. Theo Sonia Jaffe Robbins, giảng viên môn biên tập báo chí
tại Đại học New York, “biên tập văn bản
là một quy trình mà trong đó biên tập viên giúp cho phóng viên cải thiện việc
viết lách, để cho bài vở trở nên rõ ràng và được trình bày một cách tốt nhất có
thể được.”[4]
Không ai nêu ra rằng biên tập
viên phải giỏi ngữ pháp, viết đúng chính tả và dấu câu. Đối với nghề biên tập,
rành rẽ ngôn ngữ là chuyện đương nhiên, tuy trong thực tế không hẳn đã đúng như
vậy.
Làm việc với từ ngữ là nhiệm vụ
đầu tiên của một biên tập viên. Công việc này được gọi là biên tập văn bản
(copy editing). Công việc chính của biên tập viên văn bản bao gồm việc sửa lỗi
ngữ pháp, bút pháp và tìm cách làm cho bài vở chính xác hơn. Thật ra, biên tập
viên văn bản phải làm nhiều hơn thế nữa: tập trung suy nghĩ và suy nghĩ một
cách sáng tạo. Nếu không, chắc hẳn ai đó đã làm ra được một chương trình biên
tập tự động rồi.
Tố chất của người biên tập
Người biên tập giỏi thường có những tố chất sau:
Tự tin. Biên tập viên tin vào trí thông minh, trình độ hiểu biết và
khả năng viết lách của mình. Họ nắm vững bút pháp của tờ báo cũng như khả năng
sản xuất và đường lối của tờ báo. Họ hiểu và sử dụng tốt hệ thống mạng tin học
nội bộ cho công việc của mình.
Khách quan. Biên tập viên không chủ quan. Họ cũng không thể ưu ái
phóng viên này hơn phóng viên kia trong công việc.
Cẩn thận. Biên tập viên phải chú ý tới bạn đọc và tính cách của tờ
báo. Việc trình bày, chọn bài, ảnh và tít phải hòa hợp với nhau để củng cố hình
ảnh của tờ báo.
Thông minh. Biên tập viên phải có kiến thức nền rộng để biết bài
viết sai hay viết đúng.
Luôn đặt câu hỏi. Biên tập viên phải thắc mắc đủ thứ. Họ biết nếu
mình nghi ngờ thì bạn đọc cũng sẽ như vậy.
Ngoại giao. Biên tập là nghề luôn đụng chạm. Người làm nghề này
phải tìm cách giảm thiểu sự căng thẳng không thể tránh được giữa người biên tập
và người viết.
Khả năng viết lách. Biên tập viên phải viết báo giỏi hơn phóng
viên.
Óc khôi hài. Người biên tập phải biết cười trước những sự vô lý
trong nghề nghiệp như bài viết tồi mà vẫn phải sửa để đăng báo.
Vị trí của biên tập viên
Đã có một thời, biên tập viên –
chủ yếu ở các báo nước ngoài - được xem như nhà báo thứ cấp, những phóng viên thất
bại hoặc lụt nghề hoặc phải lui về phía sau do tuổi tác. Hiện nay, một số phóng
viên vẫn nhìn các biên tập viên như thế. Tuy vậy, những năm gần đây, nghề này
đã bắt đầu được kính trọng vì vai trò của báo chí đã thay đổi.
Bước vào thế kỷ 21, các báo phải
tìm cách giải thích tin tức nhiều hơn trước vì tin nóng, tin nhanh đã bị
Internet, đài phát thanh, truyền hình giành mất rồi. Các báo cần ra sức săn tìm
thông tin để có thể tường thuật những gì ở đằng sau các sự kiện, làm cho sự
kiện nổi bật lên hơn. Các nỗ lực này đã đưa việc viết hay, viết giỏi lên thành
ưu tiên hàng đầu trong một số tờ báo.
Nói chung, ngày nay, không một
nhà lãnh đạo cơ quan truyền thông nào mà lại không thừa nhận giá trị của các
biên tập viên giỏi. Các báo Việt Nam trả lương cho người biên tập cao hơn cho
phóng viên cùng trình độ; có thể gần gấp đôi.
Khi viết giỏi, viết hay được coi
trọng, thì biên tập viên giỏi cũng được săn đón hơn. Nhưng có khi tuyển không
ra. Tạp chí Nhịp Cầu ra 15 ngày một số (truớc đây ra hàng tháng), thuộc Hội
Liên lạc với Người Việt Nam ở nước ngoài, chẳng hạn, đã đăng báo tuyển thư ký
tòa soạn – một loại biên tập viên – từ hai, ba năm nay, nhưng vẫn chưa tìm.
Ở Mỹ, biên tập viên báo trên mạng
có thu nhập rất khá. Theo tài liệu Interactive Publishing Surveys, công bố
tháng giêng năm 1998, biên tập viên trực tuyến có kinh nghiệm hưởng lương từ
45.000 đô la Mỹ đến 75.000 đô la Mỹ mỗi năm.
Nhưng biên tập viên dựa vào đâu
để làm việc? Vào 3 điểm cơ bản: hiểu độc giả, hiểu tin tức và sử dụng ngôn ngữ
nhuần nhuyễn. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về những điểm này trong bài tiếp
theo.
[1]
Dựa theo ý của Tuơng Lai. Nhà nghiên cứu này viết: Chủ trương “đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không
phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ
và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi
mới” có ý nghĩa phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đây là sự phản ánh một
cách khách quan nhu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới, thể hiện
một tầm nhìn mới, vượt qua những ràng buộc hạn hẹp của quan điểm “ai thắng ai”
lấy vấn đề ý thức hệ là điểm quy chiếu tuyệt đối của một thời đã qua, để thấy
được rằng hiện nay đồng thuận xã hội chính là động lực thúc đẩy sự phát triển
của đất nước.
Nó đòi hỏi cách ứng xử bằng “đối thoại” và thuyết phục lẫn nhau thay
cho “độc thoại” và mệnh lệnh áp đặt. Nó tiếp nhận “nguyên lý bổ sung” thay cho
“nguyên lý loại trừ” trong nhận thức
về quy luật tiến hóa thực chất là đồng tiến hóa, trình độ trật tự và tổ chức
của cái toàn thể tăng lên trong sự tăng lên của tính đa dạng và chất lượng tổ
chức của các thành phần.
Xem thêm: Tương Lai, “Nhân mùa
Giáng sinh”, Pháp Luật 25-12-2005 trang 3.
[2] Hà Thúc Hoan, Tiếng Việt thực hành, tái bản
lần thứ 8 ( TPHCM: NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1998) trang 44, 45.
[3] Dẫn theo Fred
Fedler et al, Reporting for the Media, in lần thứ 6 ( New York: NXB Harcourt Brace College,
1997) trang 7.
Hiểu độc giả,
biết tin tức, rành ngôn ngữ
Đáp ứng nhu cầu độc giả là một mục tiêu tốt. Không thể bán báo nếu
không có độc giả. Tuy nhiên, nhiệm vụ của biên tập viên không chỉ có thế.
Ông Võ Như Lanh là một trong số
các tổng biên tập biết rõ tầm quan trọng của việc hiểu độc giả. Ông buộc các
nhà báo trong tòa soạn Thời báo Kinh tế Sài Gòn phải luôn chú ý đến độc giả.
Ông hay nói: phải đặt vấn đề dưới góc cạnh người đọc; đừng xa rời người đọc. Vì
lẽ đó, tờ báo thường tổ chức lấy ý kiến bạn đọc nói chung cũng như của bạn đọc -
doanh nhân nói riêng.
Cách đây không lâu, phần lớn các
lãnh đạo báo chí đều đánh giá cao biên tập viên rành tin tức hơn biên tập viên
hiểu độc giả. Ngày nay, cả hai tố chất này hầu như không tách rời nhau. Mà hiểu
độc giả lại có phần trội hơn. Ngày xưa, hầu hết các biên tập viên đều tin mình
hiểu những gì bạn đọc muốn. Ngày nay, nhiều người trong số họ thấy rằng không
phải như vậy. Mỗi biên tập viên đều phải tìm cách hiểu những gì độc giả muốn.
Bạn đọc không giống mình
Nhưng nếu bạn là biên tập viên,
bạn phải đáp ứng nhu cầu của người đọc đến mức nào là vừa? Nếu độc giả chỉ muốn
tin đồn, tin giật gân, máu đổ, người chết, bạn có đáp ứng không? Nếu họ không
quan tâm đến các hoạt động văn hóa kiểu như hòa nhạc thính phòng, bạn có cho
ngưng thực hiện bài về các hoạt động này? Cuộc tranh cãi vẫn còn tiếp tục.
Không cần phải nhìn xa để hiểu
tại sao cây bút nào cũng phải hướng tới
độc giả. Xung quanh bạn đọc, các nguồn thông tin ngồn ngộn ra đấy, chèo kéo họ.
Nào là truyền hình, phát thanh, Internet, báo ngày, báo tuần của thành phố,
tỉnh, của cả nước. Rồi báo nội bộ, tạp chí đủ loại. Như vậy, đối với các nhà
báo viết, có một thực tế cần phải đương đầu: phần lớn độc giả không tìm đến tờ
báo, xem tờ báo như nguồn cung cấp thông tin ban đầu nữa. Người đọc báo đang sử
dụng nhiều nguồn để hình thành cách nhìn về thế giới xung quanh.
Trang chủ VNExpress, chẳng hạn,
ngày càng được nhiều người tìm xem. Bởi lẽ bài vở ở đây ngắn gọn, tính tổng hợp
cao hơn so với bài của các tờ báo viết, tuy rằng phần lớn được lấy và viết lại
từ các báo viết (và hay ...sai tiếng Việt). Theo ông Vũ Quang Việt, chuyên gia
thống kê Liên Hiệp Quốc, đây là một nguồn tin rất được người Việt ở nước ngoài
ưa chuộng.
Đứng trước xu hướng nói trên, các
báo đã tìm cách đổi mới. Một số tờ chạy tít ngắn và lớn hơn trước. Cách trình
bày cũng thay đổi. Báo có thêm màu. Báo còn đăng bài ngắn hơn với hình ảnh,
bảng biểu và các mẫu đóng khung nêu các sự kiện chính nhằm thu hút những người
chỉ muốn đọc lướt. Các thủ thuật trên được gọi là điểm dẫn nhập - points of
entry, mà chúng ta sẽ tìm hiểu sau.
Nội dung các tờ báo cũng không
giống trước và hàng năm đều được cải tiến. Áp dụng nguyên tắc thông tin cận kề,
một số báo đã có trang dành cho tin tức địa phương như tờ Lao Động, trụ sở
chính ở Hà Nội, chẳng hạn, có trang “Thông tin TP Hồ Chí Minh”. Về cải tiến,
đây là một thí dụ: kể từ 2-1-2006, tờ Tuổi Trẻ đã gom các thông tin cần biết
như giá vàng, ngoại tệ, thời tiết ... đăng rải rác trong các trang báo khác
nhau của tờ báo vào một chuyên trang gọi là chuyên trang 24 giờ. Chuyên trang
này có thêm các thông tin cần biết khác như thông báo của các cơ quan chức năng
và các dịch vụ tư vấn, hướng dẫn tiêu dùng và cả các mẩu quảng cáo.
Hãy quay lại với chuyện đời xưa
(mà vẫn có thể áp dụng cho đời nay) một chút. Ông Joseph Pulitzer, người chủ
báo rất có ảnh hưởng trong thế kỷ 19 ở Mỹ, hay đi xuống đường sau khi báo ra
khỏi xưởng in. Ông thường nhìn qua vai những người ngoài phố để xem họ đọc bài
gì. Ông biết, nếu chỉ đọc kỹ thuật viết từ sách giáo khoa không thôi, thì chưa
đủ để vươn tới độc giả một cách thành công. [4]
Nhưng nhiều biên tập viên lại suy
nghĩ đơn giản: độc giả cũng giống như mình thôi. Những gì mình quan tâm, họ
cũng quan tâm. Sự thật có phải thế không? Chưa chắc. Vậy nếu là biên tập viên,
bạn nên làm gì?
Bạn có thể bắt chước Pulitzer:
rời tòa soạn và đi rảo quanh địa bàn hoạt động của tờ báo. Đây là cách thức đơn
giản nhất để hiểu độc giả.
Đương nhiên, khi đi, bạn phải mở
to mắt, vểnh cao tai, mũi phải phập phồng. Điều gì đã thay đổi? Có gì đáng ngạc
nhiên, có gì gây mâu thuẫn, lạ kỳ? Người ta đang bàn tán về điều gì? Như vậy,
bạn phải vào nhà hàng cũng như quán cà phê bình dân và ngồi hớt tóc ngoài lề
đường để nghe ngóng. Hoặc ghé các sạp báo hỏi han người chủ sạp về những gì
người mua báo quan tâm. Đó cũng là một phần trong nhiệm vụ của biên tập viên.
Bạn còn phải xem truyền hình,
nghe đài, lướt Internet và đọc báo; không chỉ đọc bài mà cả quảng cáo và thư
bạn đọc. Các mối quan tâm của độc giả thường được thể hiện qua trang bạn đọc.
Biên tập viên nào không được nhận điện thoại hoặc thư điện tử hoặc thư qua bưu
điện của bạn đọc thì nên hỏi người thường nhận được để biết về độc giả.
Trong tòa soạn của một số tờ báo
Pháp hoặc Mỹ như Le Monde, The New York Times, The Washington Post có cả một
nhà báo đóng vai đại diện cho bạn đọc (tiếng Pháp: médiateur; tiếng Anh:
ombudsman).[4] Người này viết các báo cáo phổ biến nội bộ về
độc giả, trong đó có nêu lên các mối quan tâm của họ. Các báo Việt Nam chưa có
người phụ trách riêng công việc này. Nhưng đến một ngày nào đó hẳn phải có.
Biên tập viên cũng phải đi dự các
cuộc họp đoàn thể, tiếp tân và các buổi tiếp xúc với bạn đọc. Tổng biên tập
Thời báo Kinh tế Sài Gòn hay đề nghị các thư ký tòa soạn phải chơi với giới làm
ăn để hiểu rõ hơn đối tượng phục vụ chính của tờ báo. Có lần ông nói với họ: “Các anh phải cho tôi biết sau giờ làm
việc các anh chơi với ai, có đi nhậu với doanh nhân hay không”.
Tuy nhiên, không có sự nghe ngóng
nào lại có thể cung cấp thông tin về những người không đọc báo. Tại sao họ
không đọc báo mình? Cái gì có thể lôi kéo họ đọc? Chỉ có thể trả lời cho các
câu hỏi này bằng các cuộc thăm dò ý kiến
Báo giới Pháp, Mỹ sử dụng hai
kiểu nghiên cứu: nghiên cứu cấp quốc gia do các hiệp hội báo chí hoặc các cơ
quan nghiên cứu tiến hành; và nghiên cứu do từng tờ báo thực hiện. Tại Việt
Nam, không có nghiên cứu quốc gia; còn nghiên cứu riêng thì cũng chỉ có một số
tờ báo thực hiện, nhưng thường không đầy đủ. Dường như không có tờ báo nào hỏi
ý kiến người không đọc báo mình (tại sao anh, chị lại không quan tâm đến báo
chúng tôi?)
Nhu cầu của độc giả cũng luôn
thay đổi. Có lúc sự thay đổi thật rõ ràng. Vào thập niên 80 của thế kỷ trước,
không báo nào ở TP.HCM có mục hướng dẫn tiêu dùng. Ngày nay, hầu như tờ nào
cũng lập ra mục này; thậm chí có cả một tờ báo tuần chuyên hỗ trợ cho người
tiêu dùng là Sài Gòn Tiếp Thị (xuất hiện từ năm 1994).
Dẫu vậy, các quyết định phức tạp
hơn về tin tức lại do biên tập viên đưa ra, dựa trên kinh nghiệm. Nhu cầu của
bạn đọc chỉ là một khía cạnh - tuy quan trọng - mà biên tập viên cần xem xét
khi quyết định đăng bài. Học nghề biên tập, bạn đừng xem nhẹ các yếu tố truyền
thống quy định tin tức.
Rèn luyện lỗ mũi
Hãy tưởng tượng bạn đang ngồi ở
ghế thư ký tòa soạn của một tờ báo ngày. Hàng nghìn điều thú vị, đáng quan tâm
đang xảy ra xung quanh. Tờ báo chỉ đủ chỗ cho vài chục sự kiện. Vậy bạn lựa
chọn như thế nào? Bài nào giao cho phóng viên, cộng tác viên viết, bài nào dùng
lại tin các hãng thông tấn? Bài nào đăng ở trang nhất, bài nào đăng ở các trang
trong? Nạn kẹt xe quan trọng hay chuyến thăm của một nguyên thủ quốc gia quan
trọng?
Dưới đây là một số định nghĩa về
tin tức và các yếu tố giúp cho bạn biết thế nào là có tin.
Về mặt định nghĩa chung, truyền
thông là việc truyền thông tin, tư tưởng và thái độ của người này tới người
khác. Truyền thông đại chúng là giao tiếp cùng một lúc với nhiều người qua các
phương tiện truyền thông. Với cách hiểu trên, thông tin có thể mang ý nghĩa tin
tức. Nhưng tin tức là gì? Thật khó định nghĩa. Vì đó là một quy trình chứ không
phải là một vật thể - mà quy trình này lại khá phức tạp. Tin tức chắc chắn
nhiều hơn những gì từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học giải thích, “điều được truyền đi, báo cho biết về sự
việc, tình hình xảy ra”.
Michel Voirol, giáo sư báo chí
người Pháp, cho rằng nếu cần phải tìm một định nghĩa tổng quát nhất cho nghề
báo, định nghĩa đó có thể gói gọn trong ba chữ “có gì mới?”. [4] Theo
hai tác giả Mỹ Doug Newsom và James A. Wollert, tin tức lại là những gì người
ta cần phải biết và những gì người ta quan tâm, nhưng không vi phạm đời tư cá
nhân và các tiêu chuẩn về sự thanh nhã của cộng đồng.[4]
Nhưng tin tức thường dễ nhận được
hơn là định nghĩa. Nhà báo Anh John Cardownie từng thống kê được 18 định nghĩa
tin tức.[4] Và John
Hohenberg, một giáo sư báo chí của Đại học Columbia, cho rằng số lượng định
nghĩa tin tức cũng nhiều gần bằng số lượng nhà báo.[4]
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên
của bạn trên tư cách biên tập viên là tìm hiểu về các mối quan tâm của những
người sống trong khu vực mà tờ báo của bạn phục vụ. Thí dụ, khu vực đó chuyên
nghề nông, chắc chắn bạn đọc sẽ quan tâm tới bất cứ cái gì liên quan tới ruộng
đồng. Họ sẽ muốn biết thời tiết ảnh hưởng tới việc trồng lúa như thế nào, các
quy định về thuế má tác động đến họ ra làm sao; giá lúa gạo trên thị trường, v.v.
Một nhiệm vụ khác của bạn là tìm
biết tên họ và nghề nghiệp của những người làm ra tin tức trong cộng đồng. Và
làm quen với họ. Ở cộng đồng nào cũng vậy, phần lớn tin tức đều từ một số ít
người có thẩm quyền hoặc quyền lực mà ra.
Qua thực hành, bạn có thể sẽ
luyện được cho mình cái “lỗ mũi ngửi ra tin” - theo cách nói của báo giới Mỹ và
một số nhà báo Việt Nam như Trần Trọng Thức, Trần Ngọc Châu - để thành người
gác cổng có nghề.
Đối với nhiều biên tập viên,
phóng viên, quy trình tuyển chọn tin tức hầu như diễn ra một cách tự nhiên. Nói
như vậy không có nghĩa việc đánh hơi ra tin tức là một ưu điểm trời cho. Bạn
vẫn có thể rèn luyện cho mũi mình thính tin hơn dựa vào những yếu tố thường
biến sự kiện, ý kiến, con người trở nên có giá trị tin tức. Những yếu tố đó là
thời gian tính, sự gần gũi, tầm quan trọng, sự nổi tiếng, tính lạ kỳ, sự xung
đột và thời cơ. Tất cả các bài báo ở trời Tây hay trời Đông đều ít nhiều chứa
đựng các yếu tố này.
Mài dũa thông tin
Thông tin là nhà kho của tờ báo.
Từ ngữ là đồ nghề để mài dũa thông tin. Câu không rõ ràng làm cho độc giả khó
chịu và cản trở sự truyền thông. Câu không chính xác có thể gây tổn thương thật
sự. Người ta hay nói “nhà báo nói láo ăn
tiền”, nhưng phần lớn lại tin những gì in trên báo. Khi sửa bài, bạn cần
nhớ sẽ có hàng nghìn người, thậm chí hàng triệu người đọc bài.
Ở những tờ báo phổ thông như Tuổi
Trẻ, một bài báo có thể được cả triệu người xem. Ngay cả một tờ báo chuyên về
kinh tế, thương mại như Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ít nhất cũng có 100.000 người
đọc một bài. Trong cả hai trường hợp, từ ngữ đều quan trọng.
Một tờ báo chủ yếu dành riêng cho
người làm ăn không thể viết: “Công ty Freetrend, chuyên gia công giày cho
hãng Adidas và một số hãng giày khác của Mỹ, cũng đã bắt đầu xuất hơn 9 tấn
giày sang thị trường này với kim ngạch 114.514 USD”. Và “Trong sáu tháng
đầu năm nay, Việt Hưng đã xuất 6,91 tấn áo cưới trị giá hơn 100.000 USD sang Mỹ”.
Theo lẽ thường, không ai tính giày dép hoặc áo cưới bằng tấn.
Biên tập viên phải là người yêu
chữ nghĩa. Hơn ai hết, họ tôn trọng sức mạnh cũng như sự đắc dụng của từ ngữ.
Họ hiểu rằng, ngay đến một sự thay đổi nhỏ - thêm dấu phẩy, thay từ này bằng từ
khác - cũng có thể khiến ý nghĩa của một câu khác hẳn đi. Biên tập viên cũng
biết rằng họ có thể làm cho các từ ngữ đẹp đẽ lên hoặc yếu ớt và tầm thường
xuống. Tuy nhiên, nghề nào cũng thế, có người giỏi, có người tồi. Một số biên
tập viên có thể cứu phóng viên khỏi sai lầm. Một số khác lại phá hoại cái không
khí êm dịu, dễ chịu mà phóng viên đã cực công tạo ra, hoặc làm cho câu cú trong
bài báo trở nên không chính xác. Nhưng hẳn bạn chỉ muốn trở thành biên tập viên
giỏi...
Biên tập viên còn phải quan tâm
đến các khác biệt do hư từ tạo ra. Một bạn đọc từng góp ý báo Tuổi Trẻ về việc
sử dụng hư từ “với”. Bạn đọc
này, tên là Lê Thanh Xuân, nhận xét: “… Khi dùng từ so sánh, các bài báo hầu
như lược bỏ giới từ “với” thành ra câu đáng lẽ phải viết “so với cùng kỳ năm
ngoái” thì lại viết “so cùng kỳ năm ngoái”.[4]
Biên tập viên cũng không thể để
trạng ngữ lẫn lộn với vị ngữ như trong câu sau: “Theo ông Hoàng Tiến Dũng,
giám đốc Công ty vật liệu xây dựng Hạ Long cho biết, hiện công ty có khoảng
400.000 m2 tôn”. Đã dùng “theo”
thì không dùng “cho biết”, và
ngược lại. Sau “theo” là trạng
ngữ, còn trước “cho biết” phải
là chủ ngữ.
Chúng ta sẽ nghiên cứu thêm về
lỗi ngữ pháp, lỗi dùng từ trên các báo vào một dịp khác. Còn trong bài tiếp
theo, chúng ta sẽ tìm hiểu về tòa soạn của một tờ báo, quy trình di chuyển bài
vở cùng công việc của biên tập viên trong tòa soạn.
1.
Dẫn theo Alfred L. Lorenz, John Vivian, News Reporting and Writing (Boston:
NXB Allyn and Bacon, 1996) trang 27.
2. Ombudsman của The Washington Post là Deborah
Howell, một phụ nữ . Bà có trang web riêng:: http://www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/linkset/2005/03/25/LI2005032500838.html.
3. Michel
Voirol, Guide de la Rédaction, in lần thứ 4 (Paris: NXB Presse et
Information, 1992) trang 15.
4. Doug Newsom, James A. Wollet, Media Writing, in lần
thứ 2 (Belmont, Calif.: NXB Wadsworth Publishing Company, 1988) trang 4.
5. John Cardownie, News
Agency Journalism (Bonn: NXB Friedrich-Ebert-Stiftung, 1986) trang 77, 78.
6. John Hohenberg, Ký
giả Chuyên nghiệp, bản dịch của Lê Thái Bằng, Lê Đình Điểu (Sài Gòn: NXB
Hiện đại Thư xã, 1974) trang 76.
7. Lê Thanh Xuân, “Khó
chịu khi gặp lỗi về câu cú, ngữ pháp”, Tuổi Trẻ 18-8-2001 trang 12.
Quy trình xử lý bài vở
Bài này xem xét quy trình di chuyển và xử lý các bài viết trong một tòa soạn báo.
Ở lầu một trụ sở nhóm Thời báo
Kinh tế Sài Gòn có một căn phòng khoảng 60 mét vuông, gọi là hội trường nhỏ.
Tại đây, thường mỗi sáng, vào lúc 7 giờ 45, các phóng viên, biên tập viên báo
The Saigon Times Daily ngồi lại với nhau quanh những cái bàn kê theo hình chữ
nhật. Họ ngồi để họp giao ban. Nội dung chính của cuộc họp là trình bày và thảo
luận các thông tin có thể biến thành tin tức, kiểm tra việc phân công và phân
công tiếp cho phóng viên viết bài.
Giống như The Saigon Times Daily,
một tờ báo ngày thuộc nhóm Thời báo Kinh tế Sài Gòn, các nhật báo khác đều họp.
Cách tổ chức ở mỗi báo có khác nhau một chút nhưng nội dung họp thường giống
nhau. Cuộc họp này là một phần của qui
trình xử lý bài vở trong một tòa soạn báo.
Lệnh viết bài
Tại The Saigon Times Daily, do
không có trưởng ban nên thư ký tòa soạn hoặc phó thư ký tòa soạn trực sẽ lệnh
cho phóng viên A, phóng viên B viết bài. Lệnh cả số chữ của bài và có thể cả
giờ nộp bài. Phóng viên hiếm khi tự động viết bài vì sợ viết mà không được
đăng.
Nhưng trước khi ra lệnh, thư ký
tòa soạn – một loại biên tập viên – phải dựa vào cái gì đó. Cái gì đó là đầu
tin: thông tin không chi tiết về một sự kiện đã xảy ra, sắp xảy ra mà phóng
viên hoặc những người làm công tác tòa soạn biết được nhờ vào một nguồn tin.
Thỉnh thoảng, đó còn là một sự kiện bất ngờ như máy bay rơi, một nhân vật nổi
tiếng tự tử,…
Thí dụ, phóng viên A biết được
một đầu tin rằng, trưa nay, một quan chức nước ngoài sẽ thăm thành phố và có
khả năng tuyên bố một vấn đề gì đó quan trọng. Phóng viên A nêu tin này ra
trong cuộc họp. Thư ký tòa soạn (hoặc phó thư ký tòa soạn trực) sẽ thẩm định và
có thể lệnh: viết được, nhưng chỉ 300 chữ và giao bài lúc 16giờ.
Như vậy, trước khi đồng ý cho
thực hiện bài từ đầu tin do phóng viên thu thập, thư ký tòa soạn phải xem bài
như vậy có ý nghĩa gì về mặt tin tức hay không. Nhưng công việc không dừng lại
ở đấy. Người này vẫn phải giúp phóng viên tìm góc nhìn, soạn các câu hỏi và tìm
thêm nguồn tin để phỏng vấn. Thư ký tòa soạn còn có thể quyết định thêm xem có
cần ảnh hoặc minh họa cho bài hay không. Nếu có, phóng viên phải chụp ảnh hoặc,
đối với sự kiện quan trọng, phóng viên ảnh sẽ đi kèm. Đó là bước một.
Tiếp đến, phóng viên đi làm tin,
rồi về viết. Một khi phóng viên viết xong, thư ký tòa soạn sẽ đọc bài, chủ yếu
để duyệt nội dung hơn là bút pháp hoặc văn phong. Nếu cần phải thay đổi nhiều
về nội dung (thí dụ khi có những câu hỏi nảy sinh một cách hiển nhiên khi đọc
bài mà không được trả lời), thư ký tòa soạn sẽ trả lại bài cho phóng viên để bổ
sung. Nhưng có lúc, do viết tồi, bài bị bỏ luôn, nhường chỗ cho bài khác thời
sự hơn.
Nếu bài được giữ lại, thư ký tòa
soạn sẽ biên tập sơ rồi chuyển cho một biên dịch viên, thường người này cũng có khả năng biên tập.
Bài biên tập, biên dịch xong được chuyển cho một biên tập viên người Úc để biên
tập tiếp tiếng Anh cho chuẩn. Đó là bước hai.
Sau đó, bài được chuyển ngược lại
cho thư ký tòa soạn. Nếu thấy hài lòng, người này sẽ cân đối bài vở, có thể cắt
gọt thêm, ấn định vị trí bài, ở trang một, trang hai,… trên một tờ giấy phác
thảo. Ảnh hoặc đồ họa liên quan cũng được ấn định, và có thể cả cỡ chữ của tít
cùng phong cách tít được dùng (tít sẽ được thảo luận ở một phần sau của tài
liệu này). Đây là công đoạn gọi là “vẽ maket”; tức bước ba.
Cho dàn trang
Trong bước bốn, cứ trang nào đủ
bài thì chuyển cho kỹ thuật viên phòng máy tính sử dụng các phần mềm về dàn
trang như Adobe Pagemaker để dàn trang theo maket (The Saigon Times Daily không
dùng họa sĩ để chỉnh sửa maket như các tờ báo khác trước khi dàn trang). Dàn
trang xong, kỹ thuật viên sẽ in trang ra giấy, nhỏ hơn trang báo thật. Giấy này
gọi là “bông”. Sau đó, một nhân viên gọi là nhân viên morát sẽ dùng bút bi sửa
trên bông các lỗi có thể còn sót - thường là lỗi chính tả và lỗi typô, tức các
lỗi như từ này viết hoa hay không viết hoa, từ kia viết tắt hay không, viết tắt
như thế nào… (thường do từng báo quy định).
Sửa xong, nhân viên morát chuyển
bông cho kỹ thuật viên sửa lại trên máy tính. Kỹ thuật viên sửa xong sẽ in ra
giấy để nhân viên morát đọc tiếp. Khi thấy không còn lỗi nữa, nhân viên này
chuyển bài cho thư ký tòa soạn; thư ký tòa soạn có thể sửa thêm nếu chưa hài
lòng.
Cuối cùng, phó tổng biên tập trực
sẽ đọc tất cả các bài in ra bông. Người này vẫn có thể sửa thêm bài rồi ký
duyệt cho in; nhưng khi có bài gây cấn thì gởi cho tổng biên tập đọc, cân nhắc
thêm. Đó là bước năm.
Sau khi phó tổng biên tập duyệt
xong, các bông sẽ được chuyển lại cho thư ký tòa soạn; thư ký tòa soạn xem rồi
gởi phòng máy. Và kỹ thuật viên phòng này sẽ sửa các bông thêm lần nữa, nếu cần
thiết, rồi ghi tất cả dữ liệu vào một ổ đĩa cứng di dộng. Như vậy là qua bước
sáu.
Đến bước bảy, một nhân viên tạm
gọi là giao liên nhà in (vị trí này không có tên gọi rõ ràng) sẽ đem ổ đĩa cứng
qua nhà in. Sau đó là công đoạn để chuẩn bị in báo, bắt đầu bằng kỹ thuật CTP,
tức computer to plate (từ máy tính trực tiếp tới bản kẽm). Từ tháng 10-2002,
nhà in Lê Quang Lộc, TPHCM đã sử dụng kỹ thuật này, và sau đó đến một số nhà in
khác.
Để áp dụng CTP, các trang báo
phải được dàn trên máy tính, ghi vào một ổ đĩa cứng di động rồi đem sang nhà
in. Kỹ thuật viên nhà in gắn ổ đĩa cứng vào máy tính và sau đó in thẳng các dữ
liệu trong ổ đĩa cứng lên bản kẽm, tức tấm kim loại màu trắng hơi ngả xanh.
Tiếp đến, bản kẽm sẽ được gắn lên một cái trục của máy in. Trước đây, khi chưa
áp dụng CTP, bài sẽ được in trên giấy bóng mờ, lên phim, cắt dán trên một tấm
đế gọi là “xúpbo”, rồi mới in lên bản kẽm. In kẽm xong là đến bước tám: in báo.
Báo in xong sẽ được đóng gói và
giao cho các đại lý, tức nhà bán sỉ. Đó là bước chín, kết thúc chu kỳ vật chất
của một số báo The Saigon Times Daily.
Chia
việc
Đối với báo đông biên tập viên
như Tuổi Trẻ, công việc được chia nhỏ hơn. Thay vì thư ký tòa soạn biên tập bài
bước đầu như ở The Saigon Times Daily, các trưởng ban sẽ biên tập trước, gọi là
biên tập cấp một.
Hàng Phước Long, Phó tổng thư ký
tòa soạn báo Tuổi Trẻ, cho biết tại báo mình, trưởng ban họp với phóng viên để
có tin tức, rồi họp với tòa soạn để báo tin, trao đổi thêm hoặc nhận đề tài mới.
Tiếp đến, trưởng ban lệnh cho phóng viên viết bài; hoặc cũng có thể cho đi săn
tin để viết bài trước cuộc họp với tòa soạn.
Sau đó, theo Phước Long, trưởng ban sẽ
nhận bài để biên tập cấp một, rồi chuyển tất cả các bài của trang mình phụ
trách (chính trị-xã hội, kinh tế, quốc tế v.v…) cho tòa soạn. Tại đây, bài sẽ
được biên tập viên, thư ký tòa soạn hay tổng thư ký tòa soạn biên tập cấp hai,
kỹ hơn. Người trực tòa soạn cũng sẽ vẽ sơ makét trên giấy rồi giao cho họa sĩ
chỉnh sửa; xong thì gởi cho kỹ thuật viên phòng máy để dàn trang. Các ban chỉ
là một nguồn cung cấp bài; tòa soạn còn những nguồn khác. Đó là cộng tác viên,
phóng viên của các văn phòng đại diện ở Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Bình Định, Nam
Trung Bộ (Nha Trang) và Cần Thơ. Bài của những nguồn ngoài tòa soạn này do các
thành viên của tòa soạn biên tập. Các thành viên này gồm tổng thư ký tòa soạn,
các phó tổng thư ký tòa soạn, thư ký tòa soạn và một số biên tập viên văn bản.
Trong một số tờ báo như Tuổi Trẻ,
việc di chuyển bài được thực hiện bằng phương tiện điện tử, từ máy tính này qua
máy tính khác; biên tập bài cũng bằng máy tính. Còn ở những tờ báo chưa quen
với kỹ thuật mới, biên tập viên tiếp tục sửa bài bằng bút bi hoặc bút chì và
chuyển bài bằng tay. Có khi bản thảo được phóng viên lưu vào đĩa mềm hoặc USB
(đĩa cứng di động), hoặc gởi qua hệ thống máy tính nội bộ, nhưng biên tập viên
vẫn in ra giấy để sửa rồi chuyển cả bài gốc (bằng cách đưa đĩa hoặc gởi qua hệ
thống máy tính) lẫn bài đã biên tập cho phòng máy tính để dàn trang.
Quả là một số thao tác của công
việc biên tập đã trở nên đơn giản nhờ cuộc cách mạng tin học. Tuy nhiên, cuộc
cách mạng này cũng tạo thêm việc cho biên tập viên. Ngày nay, nhiều chức năng
sản xuất đã được thực hiện ngay tại bộ phận biên tập.
Đường
đi của bài báo
Để dễ hình dung, có thể chia một
cách tổng quát các công đoạn của bài báo trong một tòa soạn báo viết ra như sau
(có báo nhiều hơn, có báo ít hơn):
Người thực hiện
|
Công việc
|
Phóng viên hoặc biên tập viên
(là tổng thư ký tòa soạn, thư ký tòa soạn, trưởng ban).
|
Cọ xát ý tưởng để ra bài. Biên
tập viên quyết định cho viết bài ngay hay viết sau nhằm đào sâu, tìm thêm
thông tin. Ý tưởng có thể do phóng viên giao tiếp với các nguồn tin mà có,
hoặc do bạn đọc cung cấp; do phóng viên hoặc biên tập viên thu thập được;
hoặc theo lệnh của ban biên tập…
|
Phóng viên
|
Thu thập thông tin và viết bài.
Sau đó, kiểm tra độ chính xác, rồi chuyển cho biên tập viên.
|
Biên tập viên (là tổng thư ký
tòa soạn, thư ký tòa soạn, trưởng ban, biên tập viên văn bản)
|
Biên tập bài. Có thể quyết định
ngay số chữ và chỗ của bài trong một trang báo. Có thể để phóng viên tự sửa,
bổ sung chi tiết.
|
Biên tập viên văn bản (hoặc
nhân viên morát)
|
Sửa thêm về hình thức, thường
là theo bút pháp của tờ báo, rồi chuyển cho người trực tòa soạn.
|
Phó tổng biên tập trực nội dung
(có thể cả tổng biên tập)
|
Đọc và ký duyệt tất cả các bài
do tổng thư ký tòa soạn chuyển. Có thể sửa thêm hoặc gác bài.
|
Tổng thư ký tòa soạn (hoặc
người trực tòa soạn)
|
Nhận lại bài, sắp trang, và vẽ
sơ makét, chuyển cho họa sĩ hoặc kỹ thuật viên phòng máy.
|
Họa sĩ (hoặc kỹ thuật viên)
|
Làm makét chi tiết theo chỉ dẫn
của tổng thư ký tòa soạn (hoặc người trực tòa soạn), đưa lại tổng thư ký tòa
soạn xem.
|
Tổng thư ký tòa soạn (hoặc
người trực tòa soạn)
|
Lệnh in báo
|
Hỗ trợ người mới vào nghề viết lách
Bài này nhằm gợi ý
cho biên tập viên các cách thức hỗ trợ những người học nghề viết lách nhưng
không biết bắt đầu từ đâu.
Hãy bắt đầu từ bước đầu tiên:
chuẩn bị. Bước này bao gồm ba loại kỹ năng. Thứ nhất, tìm ý tưởng (ít được những
người mới vào nghề quan tâm rèn luyện). Thứ nhì, tìm nguồn tin (người mới vào
nghề hay lúng túng). Thứ ba, bảo đảm bài đầy đủ thông tin (người mới, người cũ
gì đều gặp khó khăn).
Viết báo giống như dựng nhà,
trước hết phải có vật liệu. Vật liệu đây là ý tưởng và thông tin săn tìm được
và phải có đủ. Không khác dựng nhà, viết báo cũng cần bản vẽ và người viết phải
biết dùng bản vẽ cùng một số kỹ thuật khác (các bước tiếp theo trong quy trình
viết). Người làm nghề báo còn luôn đổ mồ hôi, thậm chí toát mồ hôi vì giờ lên
khuôn của tòa soạn. Nghề này giống như nghề võ, không có con đường tắt.
Đâu cũng có ý tưởng
Trong phần lớn các tòa soạn,
phóng viên cung cấp hơn phân nửa ý tưởng viết bài; phần còn lại do biên tập
viên đưa ra. Phóng viên ra đường, phóng xe đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều
người. Họ tư duy và phát hiện đề tài (theo cách nói của người trong nghề) dựa
trên thực tế đó và báo đề tài cho người phụ trách trực tiếp, tức trưởng ban.
Nhưng có loại đề tài chỉ cần dở lịch: Tết, Trung Thu, Ngày Phụ nữ quốc tế v.v. Và
có loại được thông báo trước: Chính phủ họp, Hội đồng Nhân dân thành phố họp,
các cơ quan họp; một công ty khai trương văn phòng đại diện, giới thiệu sản
phẩm mới, nhận giấy phép đầu tư, v.v. Biên tập viên dựa vào đó để đề nghị phóng
viên viết bài.
Tìm ý tưởng viết bài chủ yếu là
vấn đề thái độ - tích cực thì tìm ra; tiêu cực, nhìn đâu cũng chẳng thấy. Nếu
chịu quan sát, lúc nào cũng có đề tài. Quan sát rồi đặt câu hỏi. Hầu hết các
bài báo đều nhằm trả lời cho một hoặc một số câu hỏi. Bài bạn đang đọc đây,
chẳng hạn, nhằm trả lời cho chuyện sinh viên báo chí than vãn ít được thực hành.
Một trong những nguyên tắc chính
để tìm đề tài là đọc báo và xem truyền hình, đặc biệt chương trình "Chào
buổi sáng". Nhờ xem chương trình này, một số cây bút đã có thể viết bài.
Tuần trước, đài truyền hình nói về một gia đình ở Bảo Lộc, Lâm Đồng chuyên nuôi
bướm để làm tranh bướm; tuần sau, một số báo có bài về nuôi bướm của gia đình
đó.[4]
Nên đề nghị sinh viên thực tập
đọc mục quảng cáo, thư bạn đọc, và đương nhiên là các bài báo. Đọc tất, kể cả
bài tin quốc tế, để từ đó đi tìm các góc nhìn địa phương. Lãi suất ngân hàng ở
Mỹ tăng, liệu các ngân hàng trong thành phố thu hút thêm người gửi tiền tiết
kiệm? Vàng thế giới liên tục lên giá trong những tháng đầu năm có làm cá, thịt ngoài
chợ tăng theo? Số người mua vàng miếng có giảm? Giá vàng nữ trang như thế nào?
Đối với tin tức trong nước, vẫn có
thể tìm thêm các góc nhìn khác. Nói chung, tin thời sự chỉ mới là tin nháp,
chưa đầy đủ. Nếu tinh ý, còn khai thác được thêm nhiều bài khácnữa. Các báo
thường đăng tin kiểu một lần hoặc vài lần rồi thôi - trừ các sự kiện lớn hoặc quá
lớn và còn tiếp tục phát triển như vụ đánh bạc đã dẫn tới khám phá tham nhũng ở
Ban Quản lý các Dự án 18, một cơ quan thuộc Bộ Giao thông Vận tải, khiến một số
quan chức vào tù và một bộ trưởng phải từ chức.
Vậy chuyện ở đây là thế này: nên kiểm
tra các bài tin lẫn các bài diễn cảm (ký sự, phóng sự) đăng tháng trước, ngày
hôm qua, ngày hôm nay và tự hỏi: "Còn
cái chi nữa không hè?" Chuyện gì xảy ra sau khi tôm nuôi chết hàng loạt ở
Cần Giờ? Cô A, được báo X giới thiệu như nghệ nhân số một nghề thêu, nay thế
nào? Cậu bé B ở nhận học bổng của báo Y, hiện học hành ra sao? Tức tìm cái
mới trong cái cũ.
Để tìm ý tưởng, ngoài cái đầu, cái
miệng, còn có đôi chân của mình. Thỉnh thoảng, nếu ghé một số chợ, có thể thấy
nhiều sạp đã đóng cửa. Tại sao? Nếu sinh viên thực tập muốn viết để trả lời, chắc
không phải là quá khó.
Khi xăng lên giá, nhà báo bị ảnh
hưởng và độc giả cũng thế, vì phần lớn đều chạy xe gắn máy. Đó là ảnh hưởng
trực tiếp. Bên cạnh đó, tất cả đều bị tác động gián tiếp: chi phí chuyên chở
tăng khiến các chi phí khác tăng, từ tiêu dùng cho nhu cầu thiết yếu như ăn
uống cho đến các tiêu xài ít thiết thân như ngồi quán cà phê. Hẳn mọi người đều
muốn biết rõ vì sao lại tăng giá xăng, ai được lợi. Hồi tháng ba 2006, trước và
sau khi xăng lên giá, đã có không biết bao nhiều bài vở về đề tài này với các
góc nhìn khác nhau.
Hoặc khi giá chứng khoán tăng trong cùng tháng đó cũng vậy.
Biết bao nhiêu là bài, bao gồm cả các bài giải thích, dự báo. Đúng sai, chưa
biết, nhưng quả là có nhiều góc nhìn về đề tài chứng khoán.
Không cần tìm đâu xa. Ngay trong
trường đại học cũng khối chuyện để viết. Chuyện bạn bè trong lớp - có người từ
quê lên học, 4 giờ sáng đã thức dậy, đi lấy báo, bỏ báo ở quận I. Rồi các sinh
hoạt trong nhà trường - tối mai, nhà thơ Đỗ Trung Quân sẽ đến trao đổi với sinh
viên về thơ tình thời đi thanh niên xung phong, v.v. và v.v. Không nhất thiết
phải đi thực tế Côn Đảo mới viết được bài.[4] Xin mở ngoặc: các báo Pháp có dạng phóng sự
địa phương, chừng 600 chữ. Đó là chuyện bên kia đường, ở góc phố, trong một sân
bóng, tại một trường học, ở một nông trại ngoại ô…
Có lẽ bạn nên gợi ý cho sinh viên
mua một cuốn sổ tay cỡ lòng bàn tay, để trong túi áo, chỉ dùng cho các ý tưởng.
Họ có thể ghi vào đó những gì cảm thấy có thể biến thành bài, không chỉ ý tưởng
nẩy ra từ việc đọc báo, xem truyền hình, lướt trên mạng, mà còn cả từ các cuộc
họp, trao đổi với người trong nghề, người thân và bạn bè. Nhìn thấy chuyện gì
đó trên đường, cũng ghi.
Có thể sinh viên sẽ hỏi: "Vậy chẳng lẽ không có đề tài sáng tạo
à?" Bạn nên trả lời: "Có
chứ!" Nhưng cho họ biết thêm: số nhà báo có thể thường xuyên suy nghĩ
ra đề tài độc đáo không nhiều lắm đâu. Những nhà báo lâu năm, lăn lộn, sống
chết với nghề mà họa hằn lắm mới tìm ra được vài ý tưởng lạ để viết bài. Sinh
viên thực tập chưa cần phải được rèn theo hướng này. Đương nhiên, cần khuyến
khích các sinh viên chịu động não, giúp họ đào sâu các ý tưởng thoáng qua tưởng
chừng như không mấy có ý nghĩa trở thành các ý tưởng viết bài tốt.
Thông thường biên tập viên cấp trưởng
ban ra đề cho phóng viên. Thật ra, trưởng ban luôn dựa một phần vào báo cáo của
phóng viên để làm việc này. Phóng viên thì hay chờ viết theo ý biên tập viên. Đối
với sinh viên thực tập, cũng cần buộc họ làm báo cáo. Đây là dạng báo cáo phóng
viên nộp hàng tuần, ghi nhận các thông tin họ cho rằng có thể biến thành tin
tức.
Nên giúp sinh viên hiểu cả thực tế này: sự thành công của
người cầm bút tỷ lệ thuận với khả năng chuyển các ý tưởng thành các bài báo.
Cách săn tin lý tưởng
Một thế giới báo chí lý tưởng sẽ
không có khái niệm "bài điều tra". Từ "săn tin" đã hàm ý
điều tra rồi. Nhưng vì sao lại có loại bài điều tra? Có nhà báo cho rằng, đó là
để phân biệt với các loại bài bình thường phải đưa, không cần sâu. Một cuộc
họp, một buổi lễ khai trương công ty thôi mà. Đào sâu làm chi. Tuy nhiên, bạn
thử đề nghị sinh viên thực tập làm ngược lại: sự kiện nào cũng săn tin như thể
để viết bài điều tra. Muốn như thế phải tìm nguồn tin (chủ yếu là người)[4] cho
thật nhiều.
Bạn giao cho sinh viên thực tập đi
viết về nước ngập đường Phạm Thế Hiển ở Quận 8, TPHCM. Sinh viên đi nguyên buổi
sáng về và nói: "Chẳng ai chịu nói
chuyện với em cả." Bạn hỏi lại: "Em
đi đâu, tìm ai?" Sinh viên trả lời:
"Em đến Quận 8 xin gặp ông trưởng phòng đô thị, không được, em xuống
phường 7, Quận 8 xin gặp ông chủ tịch phường cũng chẳng được. Em về"
Làm sao đây? Hãy ngồi lại với
sinh viên và nói cho biết: không được bỏ cuộc chỉ vì nỗ lực săn tin đầu tiên thất
bại. Rồi đề nghị anh, chị ta cố tìm một nguồn tin khác, và một nguồn khác, rồi nguồn
khác nữa, cho tới khi có thông tin đủ để viết. Thật ra, tìm nguồn tin đâu khó,
kể cả nguồn cho bài điều tra. Cứ gì phải nguồn quan chức (mà theo thói quen nhiều
nhà báo thích dùng). Chỉ cần hỏi: "Ai
biết chuyện này?" "Mỗi lần nước lên, học sinh đi học ra sao? Rồi
những người khác đi lại như thế nào?" "Có chuyên gia nào giải thích
được tại sao nước lên và càng ngày càng thường xuyên hơn?" "Báo nào
từng viết về chuyện ngập lụt ở đây?" Từ những câu hỏi này, bạn gợi ý
cho sinh viên tìm người trả lời: những người dân sống ở phường 7, quận 8, chẳng
hạn.
Không phải nguồn tin nào cũng có
sẵn câu trả lời. Nhưng ai cũng cung cấp được một số thông tin, chứng cứ, kinh
nghiệm, chắp nối lại sẽ ra bài. Họ còn có thể giúp gặp những người khác, biết
chuyện. Cứ thế, một mạng lưới nho nhỏ những người rành về nước ngập đường Phạm
Thế Hiển sẽ thành hình. Từ đó, có thể chỉ cần chọn ra một gia đình điển hình có
nhà luôn ngập nước và viết về họ.
Con người chứ không phải các con số làm cho bài báo có da có
thịt. Đương nhiên, con số cũng cần (từ nguồn tư liệu); quan sát cũng cần (tức
nguồn do mắt phóng viên). Nhưng trên tư cách biên tập viên, bạn nên nhớ chuyện
của một gia đình quanh năm sống với nước
ngập sẽ tác động mạnh mẽ đến bạn đọc hơn con số lạnh lùng về thiệt hại do nước
ngập gây ra. Bạn đọc luôn vui buồn theo những nỗi vui buồn của các nhân vật báo
chí.
Có thể tạm rút một kết luận ở
đây: bài ở chân mình và miệng mình. Hãy khuyên sinh viên thực tập rời bàn giấy,
noi gương các phóng viên giỏi: họ chẳng mấy khi ngồi tại tòa soạn, trừ những lúc
dự họp hoặc viết bài, và …lĩnh nhuận bút hoặc lương.
Sự dễ hiểu của thông tin
Chúng ta phải viết theo như cách chúng ta nói, nhưng tốt hơn (Ernest
Hemingway).[4]
Chất lượng mặt hàng làm nên uy
tín cho thương hiệu của một doanh nghiệp. Thương hiệu của một tờ báo cũng vậy,
được xây dựng từ chất lượng của sản phẩm chính: các bài viết. Một trong những
yếu tố đóng góp một phần không nhỏ vào việc bảo vệ, nâng cao chất lượng các bài
báo là sự rõ ràng trong thông tin. Về nguyên tắc, văn báo là loại văn ai cũng
hiểu được, từ người học lớp sáu cho đến sinh viên đại học hoặc cao hơn. Hoặc
nói như nhà nghiên cứu ngôn ngữ Hoàng Anh: “…ngôn
ngữ báo chí phải là thứ ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính
phổ cập rộng rãi.”[4]
Cách thức tốt nhất để có được những bài báo rõ ràng, dễ hiểu là viết hoặc
biên tập bài theo lời khuyên của William Strunk và E. B. White, trong cuốn
sách gối đầu giường của nhiều cây bút: không viết thừa. Theo hai ông, “Văn sinh động là văn cô đúc. Câu không
thể có từ thừa, đoạn không thể có câu thừa, giống như bức tranh không thể có
các đường nét không cần thiết và cỗ máy không thể có các chi tiết chẳng dùng
đến. Điều này không đòi hỏi người cầm bút phải viết mọi câu văn một cách ngắn
gọn, hoặc dọn sạch mọi chi tiết và chỉ xử lý chủ đề bằng một dàn bài, mà mỗi từ
đều phải nói lên cái gì đó.” [4]
Bạn đọc không còn dễ dãi
Trước đây, bạn đọc
khá vị tha. Họ sẵn sàng bỏ qua những thông tin, từ ngữ được sử dụng theo kiểu đánh
đố, và mua báo của mình. Ngày nay, tình hình đã khác. Sự cạnh tranh của các phương
tiện truyền thông để giành giật thời gian, sự chú ý của bạn đọc đã trở nên khốc
liệt. Muốn có người đọc, bài viết phải rõ ràng (để có thể được hiểu ngay, không
cần phải suy nghĩ nhiều). Nếu phóng viên không làm được điều đó, chính bạn phải
làm, vì cơ quan và vì độc giả - bạn đại diện cho họ soát xét trước các bài báo.
Rõ ràng không đồng nghĩa với đơn giản. Trên thế giới này có rất ít những điều
đơn giản; bạn đọc cũng không chờ được nhà báo nhai lại những điều phức tạp rồi
mớm cho ăn. Nhưng họ có quyền mong đợi các nhà báo viết cho dễ đọc hơn so với
các văn bản kỹ thuật phức tạp. Họ muốn đọc báo mà không cần có những kiến thức
gì đặc biệt (trừ báo dành cho một giới chuyên môn kiểu như Thời báo Vi tính Sài Gòn).
The Wall Street Journal là nhật báo dành cho bạn đọc trình độ học vấn cao.
Tờ báo này chuyên viết về kinh tế, tài chính cũng như các xu hướng văn hóa và
các sự kiện chính trị ảnh hưởng đến giới kinh doanh. Nghe thế cứ tưởng tờ báo
sẽ khô khan, đặc biệt đối với
người không quan tâm nhiều đến kinh tế, tài chính. Thực tế không phải vậy. Tuy
viết về các vấn đề phức tạp, nhưng chữ nghĩa và cách viết của The Wall Street
Journal lại giản dị, sinh động và lắm khi hài hước nữa. Và sự rõ ràng là tiêu
chuẩn được phóng viên, biên tập viên đặt lên hàng đầu.[4]
Vậy nhà báo chuyên nghiệp cần giải thích về kinh tế cho những người không
biết kinh tế, giải thích về khoa học cho những người không đủ kiến thức khoa học,
quan hệ quốc tế cho người không làm ngành ngoại giao, và chính trị cho những
công dân bình thường.
Thường phóng viên hay cãi, cho rằng những người có chuyên môn sẽ hiểu những
điều họ viết. Nếu vậy họ đã hạn chế số lượng bạn đọc của mình rồi (không muốn
cho số đông đọc). Đó cũng chỉ là một kiểu chống chế. Lại nữa, phóng viên thường chép lại báo cáo của các ban ngành,
nhiều khi để luôn lối diễn đạt dài dòng, từ ngữ không mấy dễ hiểu là đặc trưng
của văn bản hành chánh. Có khi phóng viên ghi lại cả cách nói cầu kỳ với các từ
ngữ cũng không mấy dễ hiểu của một số người làm việc trong các cơ quan công
quyền
Ngày nay, báo chí không thiếu những sự phi truyền thông như thế, có thể do
các nhà báo cho rằng bạn đọc hiển nhiên là của mình rồi, không cần phải quan
tâm tới cảm thụ của họ nữa. Chuyện này không gì mới, nhưng đang có xu hướng gia
tăng, làm cho những người chuyên nghề biên tập lo âu. Gia tăng vì xuất hiện những
lĩnh vực mới như công nghệ
thông tin, v.v. mà ngôn ngữ Việt Nam không đủ từ để diễn tả, định danh, (CADCAM là
gì ?) mà người viết thì không buồn giải thích và nhiều biên tập viên sẵn sàng cho
qua.
Nhưng thôi, hẳn bạn không muốn
trở thành loại biên tập viên như nói ở trên. Vậy hãy tìm cách sửa tất cả những
sự lộn xộn, rối rắm, tối nghĩa trong bài vở. Bạn nên suy xét kỹ càng khi gặp
các từ trừu tượng, từ khoa học, kỹ thuật hoặc tiếng lóng. Cũng nên tìm cách hạn
chế từ viết tắt, lối viết khoa trương, sáo rỗng; cố gắng làm cho bài chữ ít,
nghĩa nhiều. Và nên cẩn thận với từ nước ngoài và không dễ dãi để cho người
viết sáng tác từ mới. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ thảo luận các vấn đề vừa nêu.
Gạch bỏ từ trừu tượng hoặc
biến chúng thành từ cụ thể. Trừu tượng liên quan đến tâm trí. Từ trừu tượng diễn tả ý tưởng chứ không
diễn tả thực thể chắc chắn. Không có sự trừu tượng, không có nền văn minh. Và
chúng ta sẽ không thể xử lý được những sự phức tạp mà chỉ có thể giao tiếp bằng
từ ngữ về sự vật chúng ta nhìn thấy: « cây giáo », « hòn đá »,
« con ngựa », « cái cây ». Như thế, chúng ta sẽ không thoát
ra khỏi thời kỳ hang động. Nhưng lạm dụng các từ như « quy trình »,
« hiện trạng », « thân phận », « cơ sở vật
chất », « bất cập », « chế định » có thể làm cho bài
báo trở nên khó hiểu.
Từ Hán Việt thường là trừu tượng. Khi có thể, nên tìm cách thay chúng bằng
từ thuần Việt. Nhưng đừng máy móc. Không nên thay « Thủ tướng đi cùng phu nhân » thành «Thủ tướng đi cùng vợ », chẳng hạn. Và có lúc phải dùng chúng
thay cho từ thuần Việt để chỉ
các bộ phận cơ thể, các hoạt động sinh lý của cơ thể hay những việc làm khiếm
nhã: « phân », « hạ bộ », « tiểu tiện », v.v.[4]
Cẩn thận với từ khoa học, kỹ
thuật. Ưu điểm của chúng là
sự chính xác, nhưng thường chỉ những chuyên gia trong ngành đó mới hiểu. Vậy đừng
quên giải thích, khi phải sử dụng loại từ này. Đừng để cho phóng viên đánh đố
bạn đọc với các từ y học như thế này trong một bài báo: đặt « nội khí
quản », có « tiên lượng » rất xấu, « phác đồ điều trị bệnh viêm phổi cấp do
virus », « dung dịch diệt phổ rộng ».
The Wall Street Journal, báo của giới kinh doanh, quy định rằng khi từ chuyên
môn xuất hiện lần đầu tiên trong bài, người viết phải giúp bạn đọc hiểu từ đó.
Kể cả những thuật ngữ tưởng chừng thông dụng như GNP. Tờ báo giải thích GNP, gross national product, là « tổng giá trị thị trường của sản phẩm
và dịch vụ do một quốc gia làm ra. »[4]
Gạch bỏ hoặc diễn dịch tiếng
lóng. Mỗi ngành nghề, tổ
chức, ngành học, mỗi giới và cả mỗi địa phương đều có tiếng lóng mà chỉ người ở
trong đó mới hiểu. Thí dụ, trong các tòa soạn, từ « sapô » được dùng
một cách thông dụng. Đây là từ trong tiếng lóng của báo chí Pháp (từ gốc:
chapeau hoặc chapô) có nghĩa là phần mào đầu, dẫn nhập vào bài báo dài.[4]
Người học tiếng Pháp bình thường chỉ biết « chapeau » là cái mũ.
Tổng vốn từ tiếng lóng thường chỉ vài chục từ cho đến trăm từ; ít khi vượt quá hai trăm từ. Phần
lớn bạn đọc không quen thuộc với loại từ này. Ngay cả từ điển cũng không giải thích
hết vì chỉ đưa vào những từ của tiếng lóng đã trở nên phổ thông.
Sau một thời gian theo dõi một lĩnh vực, phóng viên trở thành người trong
nhà của vài cơ quan trong lĩnh vực đó. Người phóng viên hiểu ngôn ngữ đặc biệt
của những người làm việc các cơ quan đó và sử dụng nó để tiếp cận với họ. Khi
viết bài, nếu không chú ý, loại ngôn ngữ này sẽ vào bài và bạn đọc sẽ cảm thấy
khó chịu hoặc không hiểu bài. Bổn phận của bạn là đòi phóng viên viết theo ngôn
ngữ thông thường. Nếu súng thì gọi là súng (giỏi hơn nữa thì
cho biết đó là loại súng gì), đừng dùng « hàng nóng » như trong một
bài báo về một người đang bị công an truy nã: Theo tài liệu của cơ quan điều tra, Hùng là đối tượng có tiền án tiền
sự, chuyên xài « hàng nóng » mỗi khi gây án.
Hạn chế từ viết tắt. Chỉ để lại các từ viết tắt khi thấy cần thiết.
Một số lãnh đạo báo chí cho phép phóng viên và biên tập viên tùy tiện viết tắt mà
không biết rằng độc giả rất mệt, rất mất công vì phải xem ngược lại lên đầu bài
- nơi có các từ đầy đủ - mới hiểu. Đừng làm cho bạn đọc mất hết hứng thú vì phải
đọc quá nhiều các từ viết tắt. Nhiều khi viết tắt chỉ tồn tại chỉ trong một bài
báo. Đây là kiểu viết lợi mình hại bạn đọc. Tốt hơn hết là cắt bớt từ thừa, những câu, đoạn lòng
thòng trong bài để có chỗ viết nguyên các từ mà mình định viết tắt.
Chỉ nên viết tắt những gì đã được viết tắt ổn định và thông dụng như TPHCM.
Đừng để xuất hiện những từ được viết tắt kiểu như thế này: THA (thi hành án), RAT
(rau an toàn) vì bạn đọc sẽ đọc là « tha » và « rác ».
Giảm nhẹ lối viết khoa trương. Một số phóng viên có xu hướng viết thái
quá lên để đánh bóng sự kiện hoặc nhân vật. Họ thổi phồng tầm quan trọng của sự
kiện hoặc nhân vật bằng cách tạo ra những lối nói trông hấp dẫn nhưng rỗng. Cần
nhớ rằng bạn đọc đến với tờ báo chủ yếu vì thông tin, không vì câu chữ.
Một thí dụ của lối viết khoa trương - ngay trong lời mào đầu của một bài
báo - thậm chí vì thế nên sai nghĩa: Dù
bằng cách này, hay cách khác, ngọn lửa nhiệt huyết, sáng tạo, tinh thần đột phá
và cả sự rắn rỏi, kiêu bạc như một kẻ sĩ trong ông đã từng tỏa sáng và cháy lan
trong nhiều thế hệ học trò của trường … Nhiều thế hệ sinh viên Đại học …đã
không thể quên GS … - người hiệu trưởng đầu tiên sau giải phóng cùng ngôi sao
màu đỏ lung linh trên nền trời nơi ngôi trường của họ.[4]
Chống sáo rỗng. Đây cũng là một loại bệnh: người viết lặp lại các từ ngữ, cách nói
năng mà người khác đã dùng đến mòn đi rồi, bất kể chúng có còn hữu ích hay
không.
Theo nhà giáo Bùi Minh Toán, “bệnh sáo rỗng, thường dẫn đến những lời
nói, câu văn ‘đao to búa lớn’ hay rất văn hoa bóng bẩy (hoa hòe hoa sói) nhưng
nội dung lại rất chung chung, thậm chí rỗng tuyếch”.[4] Sáo
rỗng còn chứng tỏ tư duy chữ nghĩa của mình nghèo nàn.
Khi bạn đọc từ đầu tiên hoặc vài
từ đầu của một cụm từ mà người khác có thể buộc miệng nói tiếp các từ còn lại
thì đích thị là sáo rỗng: chuyện nhỏ, biết bao nước đã chảy qua cầu, im như
thóc, câm như hến, mọc lên như nấm sau mưa, đường thông hè thoáng… Gần đây, có một cụm từ đang trở thành sáo
rỗng vì được xuất hiện liên tục trong các bài báo về nhà đất: Tay không bắt giặc (chỉ các doanh
nghiệp bất động sản không có vốn nhưng vẫn làm dự án nhà đất).
Đương nhiên, không thể nào tránh
tất cả các sự sáo rỗng. Người viết nhiều kinh nghiệm cũng mắc bệnh sáo
rỗng khi phải chạy đua với thời gian, gõ bàn phím máy tính dưới áp lực của
giờ lên khuôn. Nhưng bạn phải chú ý để sửa theo kiểu bớt được bao nhiêu hay bấy
nhiêu.
Đừng để cho bài nhiều chữ
quá. Biên tập viên phải
hà tiện « đất », tức diện tích các trang báo; sử dụng đất một cách
khôn ngoan và đúng đắn. Như vậy phải gạch bỏ những từ thừa, lặp lại và tất cả những hình thức phung phí diện
tích khác.
Tìm và sửa được những chỗ chữ nhiều, nghĩa ít là tài năng đáng giá nhất của
một người biên tập. Chữ thừa chiếm chỗ; gạt bỏ được chúng đồng nghĩa với việc thêm
thông tin, bớt chi phí cho tờ báo. Giảm từ cũng là giảm thời gian đọc, hỗ trợ
cho những người hay than phiền
không có thời giờ đọc báo.
Không dùng từ vay mượn của
tiếng nước ngoài chưa đi vào vốn từ phổ thông. Hiện nay, một số người hay dùng tiếng Anh một
cách không căn cứ. Dường như họ muốn khoe chữ, làm sang, trong khi vốn liếng tiếng
Anh không nhiều (người hiểu sâu một ngoại ngữ lại ít khi khoe). Đề cập đến thực
đơn của một nhà hàng, chẳng hạn, một nhà báo đã viết sai mà không biết:
« poster menu » (poster là tấm bích chương… và menu là thực đơn; hai từ này không dùng chung với nhau).
Có nhà báo viết « nhà đầu tư » xong, lại chua thêm tiếng Anh - « investor
room », tức là « phòng đầu tư », biến người thành đồ vật!
Không nên chấp nhận lối viết ba
rọi như thế này: “hàng hot”, hoặc “một view quá lý tưởng …” Nên đề nghị phóng viên diễn tả ra: hàng gì
được bán chạy; góc nhìn ra đường đó như thế nào. Cũng không cần thiết phải dùng
“đi shopping”. Tại sao không viết “đi mua sắm” nhỉ?
Cẩn thận với từ mới. Trong một cuộc họp nhằm tìm cách thức gỡ khó
cho các công ty xây nhà, kinh doanh đất, một quan chức cho biết chính quyền
thành phố sẽ mua lại nền đất hoặc căn hộ của các doanh nghiệp này. Phóng viên
tường thuật lại lời ông, nói rằng đó là hướng “xuyên băng” của thị trường bất
động sản. Người ta hay nói “đóng băng”, và ngược lại, “tan băng”, không ai nói
“xuyên băng”. Có nên sáng tác từ mới
kiểu như vậy không ?
Có một số từ khác được tạo ra, cũng không theo nguyên tắc nào, như
« đinh tặc » (người rải đinh cho thủng bánh xe gắn máy của người khác
rồi vá hoặc bán ruột xe ăn tiền - nhiều) ; « ngói hóa » (nhà
tranh chuyển thành nhà ngói).
Nhà báo phải là một lực lượng -
bên cạnh các thầy cô giáo và những người hành nghề viết lách khác - quảng bá và
bảo vệ sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ.[4] Cần
nhớ: ngôn ngữ viết luôn có tính bảo thủ. Không giống với văn nói, nó không chấp
nhận những lối diễn đạt luông tuồng, cẩu thả.
Ngoài việc làm cho các bài báo
trở nên rõ ràng, dễ hiểu, biên tập viên còn phải tìm cách sửa chữa các chỗ
phóng viên đã để cho sự thiên lệch xuất hiện.
TÌM HIỂU VÀ THỰC HÀNH ẢNH BÁO CHÍ
Ảnh báo chí có những nguyên tắc
mà nhà nhiếp ảnh làm báo phải tuân thủ, không thể lầm lẫn. Đây cũng là lằn ranh
bắt buộc để phân biệt với ảnh sáng tác hoặc các ngành ảnh khác, trên bình diện
nghệ thuật.
1. TÍNH TƯ TƯỞNG
Ảnh
báo là một đặc trưng “tiếng nói bằng ảnh” trên mặt báo, nhưng phải là “một binh
chủng hợp thành” của báo chí, đồng bộ với các loại hình ngôn ngữ văn hóa khác
“hợp xướng, đồng ca” tôn chỉ, mục đích của tờ báo. Và trên hết, nhắm vào mục
đích văn hóa – tư tưởng xã hội.
Ảnh
báo chí là ngành ảnh thực hiện rõ nhất bản chất của nhiếp ảnh: chụp cái hiện
hữu, đang vận động. Từ vật chụp bộc lộ một định hướng tư tưởng. Thực ra, bất kỳ
một tấm ảnh nào cũng có chủ ý nhất định.
Tính
tư tưởng – linh hồn của ảnh báo chí – được thể hiện qua:
Nội
dung của ảnh: Là sự nỗ lực của con người và tập thể trong lao động xây dựng đất
nước thông qua trạng thái tinh thần vươn tới lý tưởng chân – thiện – mỹ. Thông qua chủ quan, ảnh báo chí còn luôn đi
tìm bản chất, trung tâm của sự kiện. Từ đó khai quật cái hay, cái tốt của sự
thật hoặc cái đẹp của tâm hồn. Dễ thấy nhất : đồng lúa chín vàng biểu hiện của
sự no đủ, được mùa; nghệ sĩ thường “hớt ngọn” bề mặt đồng lúa với những bông
lúa trĩu hạt; phóng viên ảnh đi vào tìm hiểu, khai thác “tầng sâu” nước –phân
–cần –giống và năng suất, nguyên nhân làm nên cánh đồng lúa chín, biểu dương
những nhân tố tích cực. Phóng viên cũng xúc động trước trời, mây, sông, núi
nhưng biết tìm đến công việc của người đánh bắt cá, người trồng rừng. Ảnh báo
chí dựng nên những bức lao động hoành tráng của con người. Chỉ phóng viên ảnh
báo chí mới nhìn ra giọt mồ hôi trên khuôn mặt vị bác sĩ trong ca giải phẫu.
Ngôn
ngữ của ảnh báo chí là chính luận; hình
tượng ảnh báo chí là chính diện.
Mối
quan hệ tay ba: hiện thực –phóng viên –bạn đọc liên hệ mật thiết và tác động
qua lại. Hiện thực khách quan qua sàng lọc của phóng viên sẽ định hướng cho bạn
đọc, đem đến cho họ tri thức mới, giúp nâng cao tư duy và dẫn đến hành động.
Đến lượt hành động thúc đẩy lại hiện thực tiến bước. Và vòng tuần hoàn này góp
phần phát triển xã hội.
2. LƯỢNG THÔNG TIN
THỊ GIÁC
Tin
tức là gì? Đó là bất cứ thứ gì trước đây chưa biết hoặc mới xảy ra. Những gì
được nghe nói, được rỉ tai, được kể bằng lời, báo chí dùng phương tiện nhiếp
ảnh “kể” bằng tận mắt nhìn để mọi người mục sở thị. Quan niệm mới về thông tin
là bất cứ hoạt động nào tham gia vào mặt trận truyền thông đại chúng, tìm mọi
cách để sớm đến với bạn đọc. Thật đơn giản: mọi người nghe nói có con vật lạ
đầu tiên được nhìn thấy ở gần Quảng Bình, được gọi là con Hươu Sao La, thì
nhiều người và cả một số nhà sinh vật học thế giới đã bay đến Quảng Bình tìm
hiểu, đánh giá khoa học, xếp giống loại, quay phim, chụp ảnh đăng quảng bá hiểu
biết về con vật mảnh mai, mình hươu, đầu nai, tai ngựa.
Cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền
dài hàng ngàn mét, nghe nói được áp dụng kỹ thuật làm cầu hiện đại nhất khu
vực, mà bằng dây treo, cầu treo dây văng là thế nào? Thì đây, ảnh cây cầu đã
được in trên báo. Mỗi tờ báo đem đến cho bạn đọc một cái nhìn cụ thể, chi tiết
nhìn cây cầu ban ngày, nhìn cây cầu ban đêm chiếu sáng như trong mơ, này các bộ
phận dây văng, này dải ngăn cách, này độ cao chiếc cầu mà con tàu đang rẽ sóng
dưới bóng của nó … Và đây, ảnh lễ khánh thành, ảnh chân dung những con người
lao động xây dựng nên cây cầu lịch sử, …v.v….Lợi ích của thông tin bằng mắt là
vậy.
Đối với nhà báo, câu hỏi vẫn luôn
đặt ra: Tin gì? Ở đâu ra? Các biên tập viên tin tức thế giới tìm nguồn tin toàn
cầu, ghi chép, chọn lọc... trên cơ sở lao động của động nghiệp bốn phương. Còn
tin tức trong nước? Phải bằng chính công sức cuốc xới trên mảnh đất của mình để
tìm ra những vỉa kim loại mang nội dung tin tức. Thế giới đối tượng của phóng
viện được chia làm hai loại sự việc: sự việc bất thường nảy ra tin tức và sự
việc thường ngày –vốn chiếm nhiều nhất những điều tai nghe mắt thấy của biên
tập viên, phóng viên, nhưng phải sục sạo, tìm tòi, phân tích, lý giải mới tìm
ra được yếu tố tin tức.
Phóng
viên ảnh tham gia vào công việc báo chí là công việc có định hướng. Chụp gì?
Tại sao, (việc đó) như thế nào ? Đó là những câu hỏi mà phóng viên đặt ra cho
mình hằng ngày, trong khi không ngưng nghỉ việc đưa ảnh lên báo. Các nhà quản
lý báo thường xuyên nhắc nhở phóng viên của mình và những cộng tác viên đắc
lực: Chụp gì? Tại sao? Như thế nào? Để đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc và
cũng vì lợi ích sống còn của tờ báo. Qua điều tra của các tổ chức báo chí thế
giới, có một kết luận được đưa ra: tờ báo nào có ảnh giải đáp chặt chẽ, phong
phú thì tờ báo đó giành được nhiều bạn đọc hơn.
Đến
đây, điều quyết định chất lượng thông tin là nội dung phải chụp trở thành yếu
tố hàng đầu của ảnh báo chí. Lãnh vực báo chí khai thác tình trạng động, biến
động ở trong đó, về những gì quan hệ đến đời sống con người. Đứng hàng đầu
những điều quan tâm là những vụ việc cấp bách trực tiếp đến sinh mệnh của số
đông: chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, nạn đói. Thứ đến là những thành tựu do
con người làm ra: hòa bình, hữu nghị, sinh hoạt chính trị của toàn dân, những
công trình to lớn ích nước lợi dân, những thành tựu kinh tế, những phát minh và
sáng tác biểu hiện tài năng trí tuệ con người, những biểu tượng về đức tính tốt
đẹp truyền thống của dân tộc …
Phương
tiện nhiếp ảnh có khá nhiều thuận lợi để báo tin cấp kỳ, trình làng bộ mặt của
sự kiện lúc xảy ra. Đồng thời những nhà báo nhiếp ảnh tinh thông nghề chụp ngay
lấy hành động cùng bộ mặt con người trong sự kiện. Thái độ vui buồn hay lo âu,
rạng rỡ hay thảm cảnh cũng như mối quan hệ giữa người với người trong sự kiện.
Trong những công trình do con người làm nên, chủ đạo vẫn là hành động và bộ mặt
con người đang xây dựng. Cũng như con người trong phát minh, sáng tác, sản
xuất, thu hoạch mùa vụ, học hành …Bên cạnh những cỗ máy to lớn, những phương
tiện tinh xảo thì điều ảnh báo chí truyền đạt vẫn phải là mặt, hành động, cử
chỉ con người.
Vấn
đề con người là trung tâm miêu tả, tái hiện của báo chí – và do đó, xác lập
trong nghệ thuật nhiếp ảnh – là một quan điểm hình thành qua tranh luận, đấu
tranh tư tưởng và ý thức lâu dài mới đạt được. Có một số người chủ trương: thảm
cảnh, tai họa, sáng chế, phát minh, …nó đã xảy ra, anh là nhà báo hãy chụp nó
như nó vốn có, ảnh càng ác liệt, giật gân càng thu được nhiều tiền.
Nhưng chúng ta chủ trương: sự
việc đương nhiên đã và đang xảy ra, nhưng con người có thể chế ngự thảm họa,
cưu mang nhau vượt qua thảm họa; những thành tựu, những điều tốt lành trong đời
mà con người coi là đạo lý có thể nhân ra. Lập luận này tích cực chứng minh
luận điểm: con người là trung tâm của thế giới, là chủ thể hưởng thụ cũng là
chủ thể cải tạo và xây dựng thế giới; chiến tranh không phải là định mệnh của
loài người. Điều phân định này lý giải: ảnh báo chí nói riêng và báo chí nói
chung của nước ta không coi sản phẩm của mình là thương phẩm đơn thuần, mà coi
đây là công cụ làm chủ của nhân dân; và qua đó nói lên phẩm chất đạo đức của
nhà báo.
Có
một thực tế: Trong cơ quan báo, hầu hết biên tập viên, phóng viên viết đều được
học về nhiếp ảnh. Nhưng phần lớn trong họ không phải là phóng viên ảnh. Bởi
việc chuyên viết, chuyên chụp có những ngón nghề riêng biệt. Nhà nhiếp ảnh làm
báo –phóng viên ảnh có đặt trưng về tư duy hình ảnh, có khả năng làm mọi chuyện
mà mình gặp thành thứ nhìn thấy được. Robert Kerns, nhà nhiếp ảnh người Mỹ
(trong sách Photo Journalism) đưa ra kết luận: nghề nghiệp phóng viên ảnh phải
được xây dựng trên nền tảng vững chắc (giống như nhà xây dựng mà xây dựng một
cái nền vững chắc, sao cho ngôi nhà khỏi đổ). Nền tảng vững chắc của phóng viên
ảnh dựa trên cấu trúc hợp thành thống 3 yếu tố: Suy nghĩ, Hình dung trước, Thể
hiện, gọi là bộ ba truyền thông tin thị giác.
Suy
nghĩ là năng lực làm việc của mọi người, mọi nghề. Ở báo chí, sự sung sức của
cơ thể (phóng viên) làm khuếch đại suy nghĩ thị giác. Suy nghĩ thị giác dựa vào
tri thức và khát vọng. Tri thức chính xác, đầy đủ của phóng viên ảnh nhằm xem
xét chọn lọc, phân tích, tổng hợp, đánh giá đối tượng tái hiện và khát vọng
hành động, hành động tức thì, hành động vì mục đích truyền tải nhận thức của
mình tới bạn đọc.
Hình
dung trước tác phẩm mà mình sắp sửa (hoặc sẽ) bấm máy. Đây là năng lực rất
riêng biệt của nhà nhiếp ảnh, ở đây là phóng viên ảnh. Ansel Adams là người đầu
tiên khai sinh khái niệm sự hình dung trước, sự tưởng tượng rõ ràng trong trí
óc (Visualization) trong sách The Negative (âm bản). Theo nhà tự nhiên học kiêm
nhiếp ảnh gia này, sự hình dung trước, từ chỗ tìm tòi ý nghĩa, bản chất đến
hình thể tái hiện, bố cục, sắc độ, hiệu quả tương phản, sáng chói như nó sẽ
xuất hiện trên tấm ảnh được làm tấm âm bản. Hình dung trước giúp nhà nhiếp ảnh
thay đổi cả một bố cục lý tưởng nhất. Khả năng hình dung trước giúp nhà nhiếp
ảnh thay đổi và quyết định các biện pháp thu hình tại chỗ, thậm chí đến cả một
bố cục lý tưởng nhất. Có người có khả năng hình dung trước những ý tưởng chụp
ảnh lâu dài, có tư duy hình tượng hóa.
Thể
hiện là giai đoạn sử dụng công nghệ thích hợp và tốt nhất nhằm truyền tải hình
ảnh đã được suy nghĩ và hình dung trước. Lúc này, phóng viên ảnh phải giải đáp
những câu hỏi đặt ra.
-Mục
đích chụp (tấm ảnh này) là gì ?
- Ai là người xem ảnh ?
BA THÀNH PHẦN CỦA ẢNH
BÁO CHÍ
1. CHỦ ĐỀ ẢNH
Trong xã hội mênh mông, bát ngát, dàn “ăngten của
báo chí” buộc phải chia thành những “cửa tiếp xúc” và phản ánh để khỏi sót bất
cứ một diễn biến nào. Đó là các sự kiện chính trị đối nội và đối ngoại, ngoại
giao và hữu nghị quốc tế, kinh tế (công nghiệp – nông – lâm
- thuỷ - hải sản), văn hoá, giáo dục, khoa học, xã hội, quân sự - quốc phòng –
an ninh. Mỗi một cửa tiếp xúc lại bao quát nhiều lĩnh vực, như công nghiệp có
công nghiệp nặng (hầm mỏ, luyện thép, dầu khí, điện lực, cơ khí, hoá chất…),
công nghiệp nhẹ (giấy, vải, đường sữa, chế biến nông sản, thực phẩm, đồ nhựa,
may mặc…), tiểu thủ công, mỹ nghệ, hàng truyền thống dân gian.
Ngay cả lĩnh vực nông lâm thuỷ
hải sản lại cũng có thể chia nhỏ như sau: nông dân, nông thôn, mùa vụ, sản phẩm nông nghiệp, xuất nhập khẩu, phương tiện đánh bắt, nuôi sống … giao thông vận tải (cầu đường, hàng không, hàng
hải…)
Khi đã có đề tài thể hiện, giữa
những ngổn ngang, đan chồng của tình hình, phóng viên phải sàng lọc, phân tích,
đánh giá, tìm ra những điểm hội tụ có khả năng nảy sinh thông tin và cần thông
tin, để thành chủ đề, rồi tìm cách tái hiện bằng được. Trước đây, giới ảnh báo
chí phân tích làm hai khái niệm: chủ đề và tư tưởng chủ đề. Thực ra, thuật ngữ
chủ đề đã bao hàm: “Vấn đề chủ yếu được quán triệt trong nội dung một tác phẩm
trong văn học nghệ thuật, theo một khuỵnh hướng nhất định”
(Từ điển tiếng Việt). Vậy chủ đề đã khẳng định tính tư tưởng mà phóng viên muốn
đề cập từ đề tài.
Ở đâu ra những chủ đề có
lượng thông tin đối với nhà báo? Trước hết, ở tầm vĩ mô quốc gia, những vấn đề
về chính trị - xã hội, liên quan đế quốc kế, dân sinh: hoạt động của trung ương
Đảng và Nhà nước, những sinh hoạt chính trị, ngoại giao, quốc sách kinh tế, an ninh và quốc phòng, thiên tai, dịch bệnh, tình trạng chiến
tranh,… Những nội dung này, đối với nhà báo, có cái được biết trước, có cái đột
xuất, có cái phải tìm hiểu, điều tra để phát hiện.
Thứ đến, hằng ngày, thường xuyên,
từng phút, từng giờ, luôn có sự việc mới xảy ra hoặc đang xảy ra trên các địa
bàn lãnh thổ, trong tất cả các lãnh vực của đời sống. Nhà báo nhờ thường trú,
túc trực tại chỗ hoặc thông qua cộng tác viên, thông tin viên mà nắm được thông
tin rồi có mặt tại hiện trường. Tuy ở mức độ sự việc mà anh ta quyết định
phương tiện giao thông, để có mặt ở nơi cần phản ánh thành ảnh.
Một loạt sự việc khác cũng đến
với phóng viên: các tổ chức, đơn vị, địa phương, người chủ trì công việc mời
tới thực hiện phóng sự về việc làm của mình. Tại những nơi này, thường có những
bộ phận hoặc nhân sự chuyên trách công tác tuyên truyền, văn hoá đứng ra mời và
làm việc với phóng viên. Họ giúp phóng viên rút ngắn được thời giờ thâm nhập
thực tế, mau chóng tìm ra những đối tượng và các tình tiết thông tin cần thiết.
Tuy nhiên, phóng viên vẫn phải bằng tư cách độc lập công tác, thẩm tra khéo
léo, khuôn lại những vấn đề chủ yếu, tránh sự chủ quan của “chủ nhà”.
Đến đây, phóng viên đã có cơ sở
để lấy in. Nhưng trên cơ sở tiếp xúc đó, xác định chủ đề của ảnh như thế nào?
Từ mô hình con người mới, báo chí
đã tìm đến những con người thật, việc thật, người tiên tiến, việc tiên tiến và
người tốt, việc tốt.
Phóng
viên ảnh thường thông qua phương pháp phóng sự, vận dụng thể loại chân dung,
sinh hoạt… khai thác khía cạnh đưa tin từ những tấm gương đó, làm đòn bẩy thúc
đẩy xã hội đổi mới và tiến tới. Với một tỷ lệ ít hơn, phóng viên ảnh đến nơi
những người, những việc chưa tốt, bằng phương pháp tìm hiểu của nhà báo nhân
dân, trò chuyện cùng họ, lắng nghe tâm tư, bàn biện pháp tháo gỡ, trân trọng
những diễn biễn hướng thượng để phản ánh về họ.
Tóm
lại, xây dựng đề tài theo hướng tích cực xã hội là lương tâm và trách nhiệm của
nhà báo nói chung và nhà báo chụp ảnh nói riêng
2. HÌNH TƯỢNG ẢNH
Người ta nói một tấm ảnh tốt có
thể thay cho hàng ngàn lời nói là nhờ vào tính cô đọng của hình tượng trong
ảnh. Cả một sự kiện nhiều diễn biến, nhiều tình tiết, nhiều hướng phát triển,
vậy mà chỉ cần cô đọng vào một tấm ảnh (hoặc một nhóm ảnh). Khi đã có chủ đề
rồi thì đến miêu tả tái hiện lượng thông tin. Thời cơ bấm máy là đáp án của cả
một bài toán nghề nghiệp (góc độ bao quát, ánh sáng tối ưu, mối quan hệ cận –
trung – toàn cảnh?, mối quan hệ vật chính - vật phụ?...). Thứ đến là phán đoán,
quyết định thời điểm tiêu biểu nhất của cảnh hoạt động trước mắt, săn đón, chờ
đợi cái chớp nhoáng kỳ diệu ấy. Sự kỳ diệu chỉ có thể tìm thấy ở động tác hành
động của nhân vật, hoặc các nhân vật, tư thế - động thái – tình cảm ở thời điểm
tiêu biểu nhất, giàu chất biểu hiện và thuyết phục làm thành sự cô đọng của
hình tượng trong ảnh. Thời cơ, dẫu do khách quan hoặc do chủ quan phóng viên
thúc đẩy, khi đã đến đỉnh điểm, anh ta phải biết chớp lấy.
Henry Cartier – Bresson, với tư
cách là một phóng viên xông xáo, đã rút ra kết luận: tôi không, và không thể
sáng tác ra ảnh, nhưng tôi làm giàu khả năng biểu hiện của ảnh.
Thực tiễn hoạt động của bất cứ
phóng viên nào sành kỹ thuật nhiếp ảnh đều thấy những cách thức làm giàu sức
biểu hiện của ảnh là đều nằm trong tầm tay: ánh sáng, góc đứng chụp, cắt cảnh,
bố cục… Và, mãi mãi thấy lời của Bresson là chân lý của ảnh báo chí: điểm của
cú bấm máy. Cú bấm máy bao hàm hai lĩnh vực: tính quy luật của máy ảnh “nhìn
thấy cùng lúc” mọi thứ trước mắt và tính chủ động thu hình của nhà nhiếp ảnh
vào lúc điển hình, cao trào. Tính chủ động của nhà nhiếp ảnh còn biểu hiện ở
tài năng tạo hình, biết nhấn mạnh, tô đậm chủ đề vừa đưa
xuống hàng thứ yếu - thậm chí gạt bỏ - những tình tiết phụ, những chi tiết
thừa.
Ảnh
báo chí được phép gia công thẩm mỹ nhằm tăng cường giá trị mỹ cảm, nhưng lại
không được sa đà vào phương pháp này, thường rất dễ thấy ở những nhà nhiếp ảnh
không chuyên, những người cầm máy thẻ đang đứng trước “ngã ba đường: ảnh báo
chí và ảnh sáng tác”.
Hình tượng nghệ thuật mang tính
khái quát cao phản ánh những nét tiêu biểu, bản chất của hiện thực
được biểu hiện trong cái cá thể - con người và sự việc riêng biệt – sinh động,
không lầm lẫn với bất kỳ nhân vật hoặc tác phẩm nào đã có. Nói như trong phương
pháp hiện thực: phản ánh con người điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Lấy làm
ví dụ: Phóng viên Đức Như xây dựng tác phẩm THU HOẠCH VỤ MÙA. Anh tìm đến hợp
tác xã Vũ La (Thái Bình), một hợp tác xã tiên tiến điển hình về sản xuất nông
nghiệp đạt sản lượng cao, hoàn thành các nghĩa vụ về lương thực và quốc phòng, nhờ
tổ chức lực lượng sản xuất tốt và cải thiện đời sống nông dân: anh chọn thời
điểm lúc thu hoạch một vụ lúa được mùa.
Ở đấy, anh làm phóng sự báo chí
về mùa thu hoạch, nêu diện tích, năng suất, biện pháp kỹ thuật gieo trồng và
chăm sóc, biểu dương tổ khoa học kỹ thuật của thanh niên nông dân, đồng thời
chú tâm xây dựng hình tượng nhân vật phụ nữ mới. Trong ảnh là một phụ nữ tiêu
biểu cho lớp nữ thanh niên nông thôn mới, bộc lộ tinh thần làm chủ được giải
phóng khỏi những tàn dư phong kiến cũ, ôm những lượm lúa chín nặng hạt nói lên
ý nghĩa được mùa, riêng cô thợ gặt nét mặt sảng khoái, cơ thể cường tráng,
trong tư thế bước đi sinh động. Tác phẩm tạo hình thanh
thoát, một ánh sáng bên trên cao chiếu xuống làm rạng sáng khuôn mặt, tạo phần sáng tối khuôn mặt, tạo phần sáng tối lập thể trên
thần hình giàu sức biểu cảm; bộ quần áo nông dân ngày mùa, những lượm lúa, mặt
cánh đồng lúa đang gặt, khắc hoạ nên một cảnh tượng hiện thực.
Tác
phẩm của Đức Như đã toát ra hiệu quả điển hình hoá và cá thể hoá của hình tượng
nghệ thuật.
Tác giả Lê Tú, một tay máy chụp
dịch vụ văn hoá, quyết tâm xách máy… dấn thân đi chụp người thật việc thật. Anh
nói: “Tôi xem truyền hình và tình cờ thấy anh – thương binh thương tật ¼ Nguyễn
Nam Quốc - cụt cả hai tay. Tôi cùng một số đồng nghiệp sang Quận 8 (TP.HCM) tìm
anh để xin chụp ảnh. Nhưng anh hẹn mấy tháng sau, khi nào thu hoạch cá sẽ nhắn
sang chụp luôn thể. Hôm sang chụp, tôi bấm luôn một hơi 4 cuộn phim. Hơn 120
ảnh, tôi chỉ chọn được một ảnh gửi dự
thi…”. Và tác phẩm MƯU SINH ra đời. Tác giả đã chọn từ trong xấp ảnh chụp nhiều
cảnh sống, làm việc của nhân vật; dùng đôi chân thay tay khoát cặp mái chéo
xuống, lội nước giăng lưới, xua gom cá… để chắt lọc lấy tấm ảnh anh thương binh
dùng hai cài tay giữ chặt mép lưới, cười khoái trá trước một mẻ cá lớn, dầy
đặc, quẫy nước.
Tác phẩm miêu tả một nhân vật
“tàn mà không phế”, mang phẩm chất của con người mới, người tiên tiến - nạn
nhân của chiến tranh - để khẳng định con đường mưu sinh và đạt tới thành công.
Tác phẩm cũng nói lên tấm lòng của tác giả, cảm phục và xúc động trước ý chí
của con người, một biểu hiện của nhân sinh quan tích cực. Tính cách nhân vật
điển hình trong hoàn cảnh điển hình đã giúp tác giả xây dựng nên một hình tượng
nghệ thuật điển hình hoá, cá thể hoá. Tác phẩm đã đoạt giải Grand Prix của ACCU
năm 1998.
3. CHÚ THÍCH ẢNH
Ảnh báo chí coi chú thích ảnh là
bộ phận hợp thành, không thể thiếu. Nói cách khác, ảnh báo chí có hai kênh:
kênh hình ảnh và kênh ngôn từ. Ở ảnh một tấm, ngôn từ là chú thích ảnh. Ở ảnh
nhóm (tường thuật, tổng hợp, phóng sự, ký sự…), ngôn từ trở thành bài viết công
phu.
Ở ảnh báo chí, hình tượng là yếu
tố truyền đạt hàng đầu. Tuy nhiên, hình tượng không nói hết được những chi tiết
thông tin như thời gian, địa điểm, tên người, quá trình công việc và hiệu quả.
Lại nữa, đề phòng tính nhiều nghĩa của hình tượng có thể làm nhiễu thẩm định
của bạn đọc, phóng viên khuôn lại chỉ một định hướng mà thôi. Trong trường hợp
này, ngôn từ của ảnh là chìa khoá giúp bạn đọc khám phá, suy ngẫm, tự rút ra
kết luận.
Giới
báo chí đã đưa ra các yêu cầu cho lượng thông tin trên báo, gọi là 5 yếu tố tin
tức, viết tắt bằng 5 W + H. Đó là
- Ai (Who)
- Cái gì (What)
- Ở đâu (Where)
- Tại sao (Why)
- Khi nào (When)
- Như thế nào (How)
Với 6 yếu tố tin tức, nhà báo đã
nói được nhiều. Nhưng chưa phải là tất cả. Và, chẳng ai hạn chế nhà báo khi cần
thêm thắt những điều anh ta thấy cần thiết cung cấp cho bạn đọc. Ví dụ: số liệu
so sánh với cùng kỳ năm trước, dự báo trước mắt… và cả
những lời bình.
Ở ảnh báo chí, một tấm ảnh khi
đứng độc lập, chú thích ảnh cần được chăm sóc chu đáo. Trong trường hợp này,
thường nảy sinh một mâu thuận nhỏ: sự việc cần đưa tin thì bao quát rộng mà tấm
ảnh chỉ chụp được một tình huống cụ thể. Phóng viên ảnh viết chú thích làm hai
đoạn: đoạn tin bao quát để bạn đọc hiểu được sự việc và tiếp theo, đoạn tin cụ
thể liên quan đến cảnh được bấm máy ra thành ảnh.
Ảnh
thời sự hôm nay là ảnh tư liệu của ngày mai, chú thích được sử dụng hôm nay là
chú thích nguyên thuỷ, được lưu giữ mãi cho sau này. Nó được làm căn cứ cho
việc truy cứu khoa học về sau.
Về sau, ảnh được đem ra dùng cho
nhiều nhu cầu (báo chí sử dụng tư liệu, biên tập bộ ảnh triển lãm, giao lưu
quốc tế, đưa vào bảo tàng, nhà truyền thống, chọn thi “nghệ thuật”, xuất bản
tuyển ảnh …). Mỗi lần sử dụng lại, tuỳ yêu cầu mà chú thích nguyên thuỷ có thể
được rút gọn, biên tập lại,… nhưng vẫn cần thiết giữ những giá trị gốc (người, địa điểm, thời
gian, công việc). Về sau, thời gian càng xa, những giá trị gốc giúp ích nhiều
cho nhà xã hội học, lịch sử học trong tương lai.
Bài viết kèm những nhóm ảnh, tuỳ
thể tài ảnh nhóm mà viết thì sẽ linh hoạt. Có thể được coi như văn bản văn học,
giúp bạn đọc soi sáng, gợi mở nhiều khía cạnh, có thể nhận xét, đánh giá, cổ vũ
…Tuy nhiên, bài viết không nên dài, không lặp lại những gì mà ảnh đã nói lên
được.
Khi
sử dụng ngôn từ, phóng viên gặp một số khó khăn: nhân vật phải có đủ tên họ và
chức vụ, hàm, vị, tước hiệu phải rất chính xác, biểu hiện sự nghiêm túc. Gặp
khi chụp những nội dung khoa học kỹ thuật chuyên sâu, các phương pháp công
nghệ, tên máy móc, phương tiện, công suất, tên sản phẩm, công dụng, hiệu quả…
dẫu phóng viên có học vấn và kinh nghiệm từng trải, nhưng đòi hỏi nghe – tiếp
nhận - viết ra - truyền đạt sao cho vừa đúng vừa dễ hiểu đối với bạn đọc là một
việc không đơn giản. Nếu không được tìm hiểu, ghi chép đầy đủ khi lấy tin, bấm
máy, ỷ lại vào trí nhớ sẽ thất bại.
Nhiều khi phải nhờ cơ sở hoặc
nhân vật được chụp ảnh xem lại giúp mình sửa chú thích và bài viết. Chụp ảnh
lãnh tụ, các nhân vật lớn trong xã hội, do ý muốn của các vị ấy hoặc do lòng
kính trọng của phóng viên (hoặc do quy chế của toà soạn báo quyết định), ảnh
chụp các vị trước khi in lên báo đều trình lên, xin ý kiến chọn lựa. Bác Hồ lúc
sinh thời, văn phòng Chủ Tịch có thông
lệ đệ trình ảnh chụp dược lên Chủ tịch duyệt. Mỗi khi chuẩn bị đi công tác nước
ngoài, tự Người chọn ảnh chân dung làm ảnh chính thức công bố ở nước bạn; trong
tập chân dung của Người trước chuyến thăm Ấn Độ, Người chọn một tấm mặt hơi gầy
với bộ râu dài.
Thông tấn xã Việt Nam có quy chế
xác định: những phim ảnh của phóng viên chụp về, sau khi viên tập xử lý, những
phim, ảnh đạt yêu cầu được sử dụng và đưa vào kho tư liệu lưu trữ; những phim,
ảnh không đạt yêu cầu (do lỗi kỹ thuật hoặc động thái của nhân vật) đều phải
huỷ bỏ, để tránh những hiểu lầm trong tương lai.
KỸ THUẬT NHIẾP ẢNH BÁO CHÍ
Khi vào hoạt động
báo chí, nhà nhiếp ảnh hoàn thiện dần kỹ năng nhiếp ảnh của mình. Kỹ năng đó
trở thành bản năng như người ta mở miệng là nói ra lời, cầm bút là viết ra chữ,
cầm …máy ảnh là chụp thành ảnh. Nhờ có:
a.
Điểm nhìn. Nói cách khác là góc độ chụp: nhìn bao quát hay nhìn trọng điểm,
nhìn đề cao hay nhìn hạ thấp, nhìn vào trung điểm (tiêu biểu) của đối tượng hay
nhìn tản mạn “chẳng thấy cái gì”. Nhìn có định hướng là nguyên tắc của bất kỳ
phóng viên ảnh ở bất kỳ quốc gia nào. Quan sát lối làm việc của họ, thấy mỗi
người khi “vào cuộc” là tìm ngay được một góc đứng chụp tối ưu, sắc sảo.
Không
ở đâu bằng trong ảnh báo chí, thấy tỷ lệ ảnh sử dụng góc độ thấp nhất lên cao
chiếm tỷ lệ lớn, đấy là góc nhìn cao nhân vật đối ngoại. Tác phẩm Nguyễn Văn
Trỗi trước giờ hành hình được chụp bằng một góc độ trân trọng như vậy. “Người
ta lớn bởi ta quỳ xuống” (thơ Aragông –Tố Hữu).
b.
Máy ảnh sẵn sàng. Lời khuyên của các nhà nhiếp ảnh lớp trước là ra khỏi nhà,
anh hãy mang theo máy ảnh bên mình và máy ảnh luôn ở tư thế sẵn sàng. Cần đặt
một chỉ số bắt sáng gần đúng với hoàn cảnh trước mắt cũng như cần đặt một cự ly
máy “chung chung”, ví dụ đặt sẵn f/8-1/125-vạch 5 mét (là đã có thể chụp một
cảnh tương đối đủ ánh sáng và rõ nét từ 2 mét đến vô cực), đương nhiên sẽ dễ
dàng căn chỉnh chi tiết hơn khi “vào cuộc”.
c.
Bố cục qua khung ngắm phải là sở trường của phóng viên. Đây là điều rất nhiều
nhà sư phạm nhiếp ảnh hoặc mỹ học nhấn mạnh với các nhà nhiếp ảnh: phải tập
luyện để có thể hình dung trước tấm ảnh sắp sửa bấm máy. Phóng viên ảnh phải quá
thành thục điểu này. Qua khung ngắm, đã xác định đâu là nhân vật trung tâm, cái
gì sẽ đưa lên tiền cảnh và cái gì đưa xuống hậu cảnh. Chính là do điểm nhìn
quyết định đối tượng chính – phụ, chi tiết lớn nhỏ, khoảng cách gần xa…cắt cảnh
thực tiễn đưa vào tấm ảnh của tương lai. Tuy nhiên, sự quyết đoán của phóng
viên hoàn toàn dựa vào phản ứng nhanh nhạy trước tình huống khách quan.
d.
Tạo trạng thái động trong ảnh. Hình tượng nghệ thuật báo chí là sự cô đọng (nhà
văn Nguyễn Tuân từng ví phóng viên ảnh chụp “cú một” giống như lính bộ binh sử
dụng súng trường vắn phát một ….mà bách phát bách trúng). Hình tượng “ cắt” một
cảnh, sao cho người xem hình dung được điều gì đã xảy ra trước đó. Diễn biến
nét mặt, hướng cử động, tình tiết được tập trung vào chủ đề; chiếu theo thói
quen và tâm lý thị giác (ví dụ : thói quen đọc hàng chữ từ trái sang phải sinh
ra thói quen nhìn chuyển động từ trái sang phải và mặt ảnh nằm ngang, đôi khi
phim âm bản được phóng trái để được hiệu chỉnh hình ảnh phù hợp với thói quen
đó). Với một số ảnh hoạt động, thời chụp châm hơn một, hai nấc để tạo nét nhòe,
mờ hoặc chao động nhẹ của động thái. Chụp chậm một vận động hoặc chụp lia máy,
kỹ xảo “chơi zoom” với ống kính zoom cũng là nhằm biểu hiện động thái trong
ảnh.
e.
Tạo hiệu quả căng trong ảnh. Điều vừa nói tới, thể hiện trạng thái động/tĩnh,
tĩnh/động là một ví dụ làm ra tình thế căng trong ảnh. Tương tự, các kỹ thuật
chọn những bộ phận sáng/tối, tối/sáng, trắng/đen, đen/trắng, rõ nét/mờ nhòa,
màu đỏ-màu cam/màu xanh-màu đen, không gian bị chặn lại sau lưng/không gian mở
rộng ra trước mặt nhân vật, …v..v…làm cho độ căng trên ảnh hấp dẫn mắt nhìn củ
bạn đọc.
Ảnh
báo chí đạt tới kịch tính khi thể hiện tình trạng mâu thuẫn, hợp nhất trong
ảnh. Tác phẩm TỪ THẦN SẤM XUỐNG XE TRÂU (Văn Bảo) nêu lên một màn kịch gây cấn
: giặc lái Mỹ trong sắc phục phi công lỡ dở bị thương, (rời bỏ chiếc máy bay
hiện đại có tên Thần sấm đâu đó trên trời cao) để ngồi bẹp xuống chiếc xe quyệt
miền núi Bắc Giang trâu kéo và do người nông dân áo vải, chân đất dắt đi. Một cảnh
khác: giữa cảnh khói lửa chiến tranh, người chiến sĩ quân đội nhân dân nâng tù
binh băng bó đầu máu, uống ngụm nước từ chiếc bi đông đặt nghiêng. Giữa cảnh
sông nước lầy lội, ngổn ngang thuyền bè đang dựng nên một công trường làm cầu.
Những hình ảnh đối chọi nhau trong ảnh hàm chứa ý nghĩa lớn.
f.
Thời cơ bấm máy quan trọng đối với phóng viên trong thành ngữ GIÂY PHÚT QUYẾT
ĐỊNH. Đúng là ứng vào mỗi hoạt động có một cái nháy mắt đáng giá nhất mà phóng
viên không chớp đúng lúc thì sẽ trở thành một tấm ảnh vô hồn. Tuy nhiên, có một
sự suy ngẫm sâu sắc: nếu một việc đã tới đỉnh điểm, đã được phơi bầy đầy đủ
nhất, hà cớ gì bạn đọc phải suy nghĩ nữa cho mệt! Nên chăng, trước khi đối
tượng đến đỉnh điểm, một phần nhỏ của cái nháy mắt, được thể hiện, để bắt buộc
bạn đọc phải tự mình kết luận điều gì đã qua. Máy ảnh loại chuyên nghiệp bấm
một mạch 5-7 kiểu giúp phóng viên đạt được sự diễn tả đó.
Liên
quan đến việc chụp (và đăng tải) ảnh trước khi tới đỉnh điểm của sự việc đơn lẻ
nói riêng hoặc chuỗi các sự kiện, người ta ứng dụng hiệu ứng Zeigarnik (do nhà
nữ tâm lý học Nga Zeigarnik chỉ ra): hành động chưa kết thúc thì dễ gây ấn
tượng, còn khi nhiệm vụ đã hoàn thành thì bạn đọc báo không còn quan tâm tới
nữa. Đây là thái độ tích cực muốn giải quyết công việc hoặc nhiệm vụ còn dở
dang của người xem ảnh.
Ảnh
báo chí, trong trường hợp này, giúp bạn đọc vẽ nốt “bức tranh bỏ dở, suy nghĩ
tiếp và kết luận lấy”.
g.
Phóng viên là người nắm bắt nhanh, cập nhật phương tiện kỹ thuật nhiếp ảnh mới
xuất hiện. Họ dùng máy ảnh ống kính Zoom, tiêu cự cực dài.
Thêm
một phương thức nhiếp ảnh báo chí nữa. Nguyên tắc ảnh báo chí là không can
thiệp, không dàn dựng, chỉ có thể thực hiện với người thật, việc thật. Đó là
nguyên tắc bất di bất dịch của ảnh báo chí. Và, người phóng viên ảnh làm việc
với tư cách nhà báo. Phương thức này chiếm lĩnh phần lớn thời giờ và công việc
của người phóng viên. Tuy nhiên, bên cạnh phương thức “nguyên tắc ảnh báo chí”
này, phóng viên cũng thực hiện những đề tài cho phép dàn dựng. Nói chung đó là
phương thức sáng tác, phương thức phòng chụp –chân dung các nhân vật nổi tiếng,
ảnh tĩnh vật, ảnh thương mại (quảng cáo) các mặt hàng và ảnh sáng tác. Những
loại ảnh này cũng buộc phóng viên tiếp xúc nhiều phương tiện kỹ thuật nhiếp ảnh
khác nhau.
THỂ TÀI ẢNH BÁO CHÍ
Ảnh trên trang báo thường xuất
hiện dưới dạng đơn lẻ hoặc một nhóm. Trong mỗi dạng ảnh, tuỳ giá trị thông tin
hoặc ý định chụp và sử dụng trên báo mà nhà báo có những phương pháp làm việc
khác nhau.
Các thể tài thuộc dạng ảnh đơn lẻ
- Ảnh tin
- Ảnh phóng sự
- Ảnh thể thao
- Ảnh tài liệu
- Ảnh bình luận
Ảnh tin được coi là “cơm bữa” của báo chí, bởi nó nuôi dưỡng sự
sống của tờ báo. Từ cuối thế kỷ 19, thuyết “đưa tin có ảnh kèm” đã ăn sâu vào
lòng bạn đọc. Tất cả một lượng thông tin nhà báo muốn truyền đạt đến bạn đọc có
thể được gói gọn trong một ảnh. Ưu thế của ảnh một tấm là đủ một nội dung,
chiếm một vị trí khiêm tốn – mà độc tôn trên trang nhất - ấn loát bớt tốn kém,
lại truyền đi nhanh và do đó dễ được phổ biến rộng. Nếu nội
dung ảnh đáng được quan tâm, lập tức các hãng thông tấn, các cơ quan truyền
thông truyền tiếp tấm ảnh đi xa. Ảnh tin một tấm buộc phóng viên (và biên tập
viên, toà soạn) khi chọn ảnh để phổ biến phải kiếm tìm tấm
ảnh đặc sắc nhất trong số các ảnh sự kiện, các nhà báo quen gọi là “ảnh chốt”.
Phóng viên trước một sự kiện, cố
gắng chăm sóc vào thời điểm tiêu biểu chụp lấy một (hoặc một số ảnh để rồi chọn
lấy một) ảnh chốt. Nếu là thời sự cấp bách, thường tổ chức phát ngay về trung
tâm, rồi sau đó tiếp tục chụp tiếp theo hướng thời sự và hướng tài liệu. Không
có gì hạn chế việc chụp ảnh của phóng viên về những điều mà anh ta quan tâm,
thích thú. Rất nhiều ảnh trong số anh ta chụp được, tiếp tục có mặt trên báo
ngày (báo nhà và báo bạn), báo tuần, báo tháng, để triển lãm, để trao đổi văn hoá với nước ngoài….
Tuỳ vào nội dung truyền tải mà có
ảnh tin chính trị, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, văn hoá, giáo dục… Mỗi loại
tin có lối viết khác nhau và ảnh cũng có lối chụp khác nhau. Có điều, trong bất
cứ trường hợp nào, phóng viên ảnh cũng cần quan sát, phân tích chọn lọc nhằm
hướng ống kính của mình vào chính con người, chủ nhân của tác phẩm. Con người
trong công việc. Con người lớn hơn cả máy móc, lớn hơn cả hoàn cảnh vì tác giả
cần tái hiện được nét mặt, sắc thái, cử chỉ, đến cả nội tâm nhân vật cũng có
thể bộc lộ ra. Trên trang báo, bạn đọc đặt mắt nhìn đầu tiên là tấm ảnh lớn,
rồi mới đọc đến các tít lớn. Những cuộc điều tra về bạn đọc, ở nhiều nước,
nhiều nơi, với máy móc tinh xảo và giấu kín, cho nhận xét như vậy và kết luận:
Đặt mắt nhìn vào ảnh, người ta chú ý ngay vào mặt nhân vật rồi từ đó mới theo
các ý đồ bố cục của tác giả mà nhìn ra xung quanh, quan sát
tổng thể; tiếp theo, đọc chú thích để lĩnh hội hết ý nghĩa của tấm ảnh.
Ảnh tin về nhân vật liên quan hai
hình thức của thể loại chân dung: chân dung chính khách và những người nổi
tiếng (nghệ sĩ, trí thức, doanh nghiệp ) được chụp như chân dung của phòng
chụp, có dàn đèn chiếu sáng. Và, chân dung những người chưa được biết đến,
thường có khuôn mặt với động tác tay và một phần công việc
Ảnh phóng sự, thực chất là một dạng ảnh tin, thường “cắt” lấy một
cảnh trong chuỗi vận động, có trạng thái động, làm như bất chợt nhìn thấy, gây
nên cảm xúc ngạc nhiên.
Ảnh thể thao, bằng vào kiến thức và kinh nghiệm chuyên ngành thể
thao (mỗi môn thể thao có những thể thức riêng) và máy ảnh có ống kính zoom
tiêu cự cực dài, phóng viên săn ảnh trong các cuộc thi tài. Tất cả hoạt động
đều diễn ra rất nhanh, cơ hội không bao giờ lặp lại, kỷ lục được lập và tiếp
tục bị phá, hoàn cảnh chụp thay đổi luôn luôn. Phóng viên ảnh không chỉ có niềm
đam mê của người đi xem, mà còn phải bám sát, theo dõi sít sao từng diễn biến,
máy ảnh đã được phục kích ở vị trí được cân nhắc cho thích hợp, rà theo hoạt
động của đối tượng, căn chỉnh nét theo, điều chỉnh độ trập trong chỉ số bắt
sáng, cắt hình trong khung ngắm. Năng động của phóng viên cũng năng động như
diễn biến thể thao.
Trong các môn thi đấu, phóng viên
quan tâm đến tất cả các vận động viên, những tình huống thách thức mà con người
gặp phải và vượt qua, tinh thần thượng võ và tình hữu nghị, những gương mặt
nhìn gần của niềm vui chiến thắng và nỗi thất vọng. Ảnh có thể phát hiện những kỷ lục mới được lập. Phóng viên cần
tiếp xúc trước với các “siêu sao”, những thành tựu đã có và mục tiêu trước mắt,
kiên nhẫn phục kích, đợi chờ, săn đón, nhanh tay nhanh mắt và chồm người lên
chộp bắt thời cơ.
Ảnh tài liệu chụp sự vật một cách chỉnh thể, trọn vẹn như trong tự
nhiên giúp bạn đọc nhìn nhận một cách đầy đủ, ảnh chính thức của các nhà nghiên
cứu, lưu trữ quốc gia và đưa vào sách giáo khoa. Cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền
là một cây cầu được chụp nguyên hình với các số liệu độ dài, độ cao tĩnh không,
đường dẫn hai đầu, vốn đầu tư, thời gian làm cầu (ngày khởi công và ngày làm lễ
hoàn thành). Hình ảnh con Sao La mới phát hiện ở rừng Quảng Bình, con cá mập sa
lưới ở Gò Công, con rùa cổ nổi lên một sáng tháng năm ở Hồ Gươm, con tàu đổ bộ
xuống Sao Hoả, kho vũ khí bí mật của quân đội KLA do KFOR phát hiện được ở
Kosovo, là tính tài liệu nổi trội hơn tính thời sự. Nhà nhiếp ảnh “tỉnh” Bùi Bé
Tư, nhà nhiếp ảnh tài tử - bác sĩ Đoàn Hồng, phóng viên ảnh TTXVN Minh Lộc trong
số hàng chục nhà nhiếp ảnh trong nước và quốc tế tìm mọi điều kiện để đến cánh
đồng Tràm Chim Đồng Tháp Mười đón chờ đàn Sếu đầu đỏ di cư (mùa khô hàng năm)
để chụp sinh hoạt của họ hàng nhà Sếu này, với những máy ảnh chuyên dùng, với
lều lá dựng làm việc từ trước lúc rạng sáng, để trước hết đạt được những ảnh tài liệu.
Một nhóm làm việc khác là các nhà
khảo cứu Việt Nam và quốc tế. Họ muốn xác minh rừng Cát Tiên có còn thú rừng Tê
giác hay không, nếu còn thì Tê giác Cát Tiên thuộc giống loài gì. Vì thế họ đã
phải lập bẫy điện tử tự động chụp các con vật đi qua. Trải
qua nhiều tháng ròng rã, máy chụp ảnh tự động mới cho những ảnh tài liệu về con
Tê giác Cát Tiên công bố báo chí và đưa vào Sách đỏ thế giới.
Ảnh tư liệu, là khi tất cả những ảnh nói trên, sau khi sử dụng cho
báo chí rồi, được xếp vào kho tư liệu lưu trữ. Sự vật thuộc quá khứ… càng xa
xưa càng quý. “Ôn cố tri ân”, ấy là khi nhân ngày lễ, đem ảnh cũ ra nhắc lại
truyền thống. Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh kỷ niệm 300 năm ra đời. Thành phố
Hà Nội kỷ niệm 990 năm thành lập. Mặc dù nhiếp ảnh mới du nhập hơn 100 năm
nhưng đã có kho tư liệu im lặng hàng
nghìn ảnh của quá khứ về sinh hoạt “nhìn thấy được” của thế hệ ông cha. Những
gánh hàng rong, bộ quần áo và đầu tóc quấn.. gợi cho những nhà xã hội học
nghiên cứu, tư liệu cho những nhà điện ảnh dựng cảnh xưa và những nhà ẩm thực
khôi phục hình thức những gánh gồng bầy món ăn cổ truyền cho các tua du
lịch.
Ảnh tư liệu góp phần vào các
chứng cứ pháp lý: những người Pháp đã chụp được ảnh sinh hoạt và phong cảnh ở
Hoàng Sa, Trường Sa từ những thập kỷ 60, 70 của thế kỷ trước, để đến nay khẳng
định chủ quyền Việt Nam ở những nơi ấy. Ảnh cuộc sống mới của đồng bào các dân
tộc miền núi và cảnh tín đồ các đạo giáo thực hành tự do tín ngưỡng… làm câm
miệng những kẻ xuyên tạc chế độ ta về nhân quyền, về đàn áp tôn giáo.
Ảnh bình luận từ sự kiện thời sự để xét đoán phải, trái, đưa ra
những số liệu đấu tranh chống tệ nạn xã hội và những biện pháp kiên quyết bài
trừ. Ảnh thời sự của công trình xây đê, lấn biển của Rạch Giá (Kiên Giang),… bình luận hướng tới
của một đô thị mới. Coi trọng hình ảnh – giá trị của bằng chứng thị giác – nhà
báo đưa ra từng cặp ảnh cũ/mới (chiều dọc thời gian), nơi này/ nơi kia (chiều
ngang không gian) và ta/địch (đối kháng).
Ví dụ về xưa/nay: TTXVN đưa ra
hai ảnh cùng một chứng tích cột cây số “Thái Bình, 3Km”, ảnh chụp của Võ An
Ninh (bên cạnh cột cây số đó) là hai em nhỏ ốm yếu trong nạn đói Ất Dậu năm 1945 và ảnh cũng bên cạnh
cột cây số đó là những em đội viên thiếu niên khăn quàng đỏ
xách cặp đi học bên một dãy phố lầu, được chụp sau ảnh kia mười mấy năm. Và như
thế tự người đọc cũng bình luận được.
Báo chí Pháp đưa ra cặp ảnh: viên
tướng Pháp chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ làm tù binh của Quân đội nhân
dân Việt Nam cặp đôi với ảnh người vợ của ông ta tại nhà ở Paris, khi nghe tin
Điện Biên Phủ thất thủ. Báo chí Mỹ đưa ra cặp ảnh: cảnh lính Mỹ khốn đốn trên
đồi Thịt Băm (Khe Sanh 1968) với ảnh lính Mỹ ở Washington dùi cui – matrắc
chống chọi với đồng bào đang chống chiến tranh. Báo chí Việt Nam đưa ra cặp ảnh
đôi: cảnh hoang tàn của bệnh viện Bạch Mai do B52 Mỹ đánh sập với ảnh bộ đội
phòng không – không quân Việt Nam tiêu diệt B52 trên bầu trời Hà Nội.
Từ những cặp ảnh đối chứng làm
phong phú công luận bình luận của bạn đọc và phóng viên ảnh bất cứ nơi nào, ở
đâu cũng có thể chụp được những tấm ảnh gợi ra bình luận của bạn đọc và những
người chụp ảnh kế tiếp.
QUY TRÌNH 5 BƯỚC CÔNG TÁC CỦA PHÓNG VIÊN ẢNH
Quy trình này của phóng viên ảnh
thực hiện cho mỗi chuyến đi lấy ảnh.
Bước thứ nhất: Đề cương biên tập, đặt ra ý đồ lấy ảnh
Không thể có
chuyện phóng viên xách máy ảnh đi công tác mà không có ý định trong đầu hoặc ý
định đó lơ mơ.
Đề cương biên tập bao hàm: đề tài
và chủ đề lấy ảnh; nơi chốn xảy ra, việc làm, nhân vật chủ thể và những vấn đề
quan tâm; thời điểm chụp; thời gian hoàn tất; và đôi khi nhấn mạnh giá trị của
ảnh phải chụp được trong công luận. Bởi lẽ, nhà báo luôn vì
mục đích chính trị xã hội của vấn đề phản ánh.
Đề cương biên tập do toà soạn, do
biên tập viên trực tiếp của phóng viên đưa ra. Phóng viên tự do (ngoài biên chế
của báo chí) có thể nhận được những gợi ý có trước của
những người vừa nói tới hoặc tự mình tìm, rao hàng trước
khi chụp và chào hàng sau khi đi chụp về với toà soạn. Như vậy, đối với bất kỳ
phóng viên tự do nào, đề cương biên tập hoặc được gọi một cách đơn giản hơn: ý
đồ có trước cho chuyến đi chụp - đều rất cần thiết.
Bước thứ hai: Đề cương thể hiện tại chỗ làm việc
Đề cương thể hiện là kế hoạch
thực hiện tại chỗ, cụ thể hoá ý đồ lấy ảnh của đề cương biên tập. Hoặc cũng có
thể gọi là kế hoạch khả thi lấy ảnh tại chỗ. Bởi lẽ, tình hình tại chỗ mới là
xác thực, nó khẳng định ý đồ hiểu biết trước đó đúng đến đâu và thực tế, nó đã
vận động, phát triển theo hướng tới (thậm chí khác hẳn với ban đầu).
Đề cương thể hiện được chi tiết
tới từng buổi làm việc, chia lịch buổi trước sau, chụp tại chỗ nào, với ai và
đặc điểm từng cảnh, bố cục khác nhau… có người dùng thuật ngữ, trong trường hợp
này: “đề cương phân cảnh”
Trong giai đoạn chuẩn bị cho việc
thể hiện này, những tài liệu (diễn biến công việc của cơ sở, số liệu, thời
gian, tên họ và chức vụ nhân vật) mà phóng viên thu thập được, cần ghi chép vào
sổ tay, càng đầy đủ càng tốt cho việc chú thích ảnh hoặc
bài vở sau này.
Bước thứ ba: Thực hiện thu hình theo đề cương thể hiện
Mặc dầu, đề cương thể hiện đã
định trước, người và cảnh đã sẵn, phương tiện kỹ thuật đầy đủ, nhưng mỗi lần
bấm máy là một giải pháp kết hợp tuyệt vời giữa khách quan và chủ quan. Khách
thể chuyển động, dáng điệu, nét mặt vào một lúc nào đó mới tiêu biểu, lại còn
phù hợp với bối cảnh cũng đang chuyển động, lại còn với cả yếu tố… trên trời và
hướng sáng (làm bóng đổ) và nền mây! Chủ thể người cầm máy vận dụng cả trí tuệ,
mỹ cảm và thể lực chân tay bước tới bước lùi, quỳ thấp rướn
cao, leo trèo, nhanh mắt quan sát, nhanh tay điều chỉnh ống kính,…
Có những pha thời sự gấp gáp, nơi
nghiêm túc quan trọng, thao tác trước trăm cặp mắt nhìn với bảo vệ che chắn,
giữa những đồng nghiệp đông đúc tranh giành lợi thế ống kính góc rộng hơn và góc
chụp tốt hơn. Và phóng viên tự nhủ: chụp vội lấy một hai kiểu làm vốn rồi hãy
chọn lựa những lần bấm máy sau chu đáo hơn, tốt hơn. Nếu thời lượng của cái sập
xuống của cửa điều sáng trong một phần trăm giây đồng hồ, thì cái quyết đoán
của phóng viên cũng diễn ra nhanh như vậy để đạt được một chiều sâu ảnh trường,
một khoảnh khắc bắt kịp không thể có lần thứ hai của cái bắt tay giữa hai
nguyên thủ quốc gia.
Khi thực hiện đề cương thể hiện
như vậy, mỗi kiểu phim được bấm máy theo kịch bản đã là sáng tạo. Quá trình
chụp cũng loé sáng nhiều cảnh mới nằm ngoài ý định, phóng viên chụp để rồi hoặc
bổ sung cho chủ đề đang thực hiện hoặc ở một chủ đề khác, một thứ ảnh sáng tác
chẳng hạn. “Kinh doanh nhiều mặt hàng” khác nhau, cho những bài báo khác nhau,
cho các mục đích triển lãm, làm giàu kho tư liệu tích luỹ từ mỗi chuyến đi cũng
là việc làm có chủ định của người phóng viên có kinh nghiệm.
Trong khi chụp như vậy, người
chụp vẫn không thể bỏ qua sổ tay ghi chép, đánh dấu cảnh và tên người theo thứ
tự chụp để khỏi lầm lẫn về sau này khi làm chú thích ảnh.
Bước thứ tư: Dựng tập ảnh mẫu sau chuyến đi chụp
Người thực hiện ảnh chụp là người
có thuận lợi để dựng tập ảnh mẫu (thuật ngữ: maquette, makét). Mỗi ma két theo
một chủ đề, một thể tài. Mỗi sự kiện có một đầu đề. Dưới đầu đề, tuỳ quy ước
của mỗi tổ chức có thể có chapeau (lời mào đầu): giới thiệu những điều mà phóng
viên ảnh đã quan tâm và người sử dụng cần biết. Tuỳ hình thức thể
tài mà phóng viên trình bày thứ tự những ảnh chụp của mình; mỗi ảnh có một chú
thích.
Những thể tài ảnh sử dụng đơn lẻ,
cần được hoàn thành trước – càng sớm càng tốt – giao cho bên tập biên, toà soạn
xử lý. Những thể tài ảnh nhóm, nếu phải viết bài kèm, đòi
hỏi thời gian và công phu hơn; sắp xếp “đường dây” của tường thuật, ký sự,
phóng sự; đường dây này cũng như đầu đề của chúng là một
nghệ thuật của người làm báo, mà chúng ta đã nói tới.
Khi makét đã dựng xong, được giao
cho biên tập viên, toà soạn, còn một việc nữa mới hoàn tất chuyến đi chụp.
Bước thứ năm: Rút kinh
nghiệm chuyến đi
Với đề cương biên tập (ban đầu)
và với makét ảnh phóng viên thực hiện được, biên tập viên/toà soạn và phóng
viên ngồi lại với nhau để:
- Xem xét từ ý đồ đến phân công,
đến nơi thể hiện ảnh đã trúng vấn đề chưa? (đường lối, quan điểm, thực tiễn,
trúng người, việc). Rút kinh nghiệm gì?
- Ảnh phóng viên chụp được có đạt
được “vấn đề” không? Những ảnh nào đạt, xuất sắc, những ảnh nào không đạt? Cùng
với makét, những vấn đề gì về nghiệp vụ cần rút kinh nghiệm: chọn chủ đề, chọn
người và việc thể hiện? Về thể tài và trình bày? Kinh nghiệm tổ chức chuyến đi.
- Từ thực tiễn chuyến đi chụp ở
cơ sở, có thể mở ra những vấn đề gì về tuyên truyền, về tiếp nối, về mở rộng
chủ đề hoặc điển hình tiên tiến? Có thể hẹn ngày trở lại cơ sở, địa phương vừa
chụp để nuôi dưỡng vấn đề trên báo không? Nhìn khái quát, việc rút kinh nghiệm
chuyến đi chụp của phóng viên chẳng những bình công, chấm điểm thành đạt mà còn
giá trị bồi bổ tri thức thực tiễn xã hội cho biên tập viên/toà soạn, làm sắc
bén và xanh tươi những vấn đề của báo chí.
Công việc tiếp theo là thuộc về
biên tập viên/toà soạn: biên tập hoàn chỉnh chú thích ảnh hoặc bài kèm ảnh, tổ
chức đưa ảnh đã chụp được lên mặt báo, lên mạng thông tin đại chúng và sau đó,
chuyển vào kho tư liệu
PHÓNG VIÊN ẢNH VÀ TOÀ SOẠN
Trong xã hội phóng viên ảnh tự do
(không thuộc biên chế của một tờ báo nào, nhưng làm công tác viên cho một hoặc
nhiều tờ báo), có phóng viên ảnh chuyên (một vài người có trong một tờ báo), có
cơ quan chuyên ảnh (của hãng thông tấn), quản lý nhiều phóng viên. Hằng ngày họ
đi chụp, cung cấp ảnh chọn cho các đối tượng trong, ngoài nước hoặc cho tờ báo
chuyên của mình.
Ngoài các tờ báo, các cơ quan văn
hoá, thông tin trong nước, tới cấp tỉnh huyện đều có ít nhiều phóng viên ảnh,
làm nhiệm vụ tổ chức mạng lưới tuyên truyền bằng ảnh ở địa phương. Họ trực tiếp
chụp cho các cuộc triển lãm ở cấp mình, chụp ảnh tài liệu lưu trữ và làm công
tác viên cho các tờ báo. Nhiều doanh nghiệp sản xuất lớn,
nhiều viện khoa học, trường đại học, nhà bảo tàng, phòng truyền thống có phóng
viên ảnh của mình, chụp ảnh phục vụ tuyên truyền và khoa học
Nhiều nghệ sĩ ảnh muốn sử dụng
tác phẩm trên mặt báo chí. Cũng có rất nhiều nghệ nhân, tài tử, nhà nhiếp ảnh
nghiệp dư cung cấp ảnh cho báo chí. Số người này nằm ở nhiều ngành nghề, nhiều
vùng trong nước, hiểu nhiều biết rộng, ảnh của họ có cái nhìn tươi trẻ, một
chút ngộ nghĩnh, chút lệch pha (bởi không phụ thuộc vào luật lệ tạo hình chuyên
nghiệp), làm cho báo chí càng gần với bạn đọc…
Tất cả các cộng tác viên ảnh báo
chí, các nhà nhiếp ảnh muốn góp mặt vào mạng thông tin,báo chí, đều tuân thủ
mối quan hệ với các toà soạn, hiểu biết tôn chỉ của tờ báo mà mình cộng tác
cũng như các tiêu chí của ảnh báo chí.
ẢNH BÁO CHÍ VÀ ẢNH NGHỆ THUẬT
Dưới đây là bảng đối chiếu sự
hình thành tác phẩm ảnh báo chí và ảnh sáng tác.
Ảnh báo chí
|
Ảnh sáng tác
nghệ thuật
|
I. Nguyên tắc
chuyên ngành
|
|
- Khai
thác từ đề tài: khía cạnh mọi người chưa biết đến, khía cạnh thông tin có
định hướng.
- Chân
thật về nội dung, hình thức và chú thích.
- Có hai
thuộc tính : tính tài liệu, tính khoa học.
|
- Khai
thác từ đề tài: Mọi biểu hiện tạo nên cảm xúc chân – thiện –mỹ.
- Nội
dung được khái quát hóa và cụ thể hóa.
- Có thuộc
tính: tính thẩm mỹ.
|
II. Thành phần
của ảnh
|
|
- Chỉ có
một chủ đề trong ảnh.
- Hình
tượng được chụp trực diện, rõ ràng, dễ hiểu.
- Chú
thích ảnh có đầy đủ các yếu tố tin tức.
|
- Chỉ có
một chủ đề trong ảnh.
-Hình
tượng có thể lạ, ấn tượng, tạo ra liên tưởng.
- Có
hoặc không có tên tác phẩm.
Tên tác phẩm gợi lên cảm xúc.
|
III. Phương thức
thực hiện
|
|
- Không
can thiệp vào đối tượng.
- Chụp
chân phương.
- Giây
phút bấm máy quyết định, vào lúc cao trào.
- Ảnh
chụp, phát hành kịp thời.
- Ảnh
mang tính khách quan để bạn đọc suy nghĩ tiếp.
|
- Có thể
dàn dựng, sắp xếp đối tượng.
- Được
sử dụng mọi kỹ xảo.
- Giây
phút bấm máy giàu sức biểu hiện.
- Không
câu nệ, thời gian cũng như khi sử dụng.
- Bộc lộ
ý đồ chủ quan của tác giả.
|
|
|
Trong thực tế, luôn có sự thâm
nhập, tác động qua lại, ảnh hưởng đến nhau của hai loại ảnh. Trong mỗi phóng
viên hoặc nghệ sĩ ảnh có thẩ vận dụng song song hoặc đồng thời từ một đề tài
với những phương pháp khác nhau. Tùy tạng của mỗi người mà tạo ra một lối làm
việc, một phong cách của mình. Nhưng nguyên tắc là phải giữ vững: sai phạm
nguyên tắc ảnh báo chí, làm mất đi tác dụng của ảnh trên báo, thậm chí là sự vi
phạm đạo đức phóng viên.
(Theo tài liệu của phóng viên ảnh
Nguyễn Đức Chính)