HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
(HIẾN PHÁP NĂM 2013)
PHẦN I
KHÁI QUÁT VỀ HIẾN PHÁP VIỆT NAM
I. VỊ TRÍ, BẢN CHẤT, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA HIẾN PHÁP
1. Vị trí của Hiến pháp
Hiến pháp là một văn bản pháp luật đặt biệt trong hệ thống pháp luật, tác động sâu sắc đến cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, đời sống kinh tế xã hội của một quốc gia. Hiến pháp do Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia – ban hành, theo một quy trình thủ tục đặc biệt.
Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định về vị trí của Hiến pháp như sau:
“Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.”
Như vậy, vị trí của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật thể hiện ở hai điểm: luật cơ bản và luật có hiệu lực tối cao.
Vị trí là luật cơ bản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển. Hiến pháp còn là phương diện pháp lý thể hiện tư tưởng của Đảng Cộng sản dưới hình thức những quy phạm pháp lý.
Thứ hai, xét về mặt nội dung, trong khi các đạo luật khác chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội, ví dụ như: Luật hôn nhân gia đình chỉ điều chỉnh các quan hệ hôn nhân, gia đình, Luật Đất đai chỉ điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực đất đai…thì Hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực của xã hội. Đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp là những quan hệ xã hội chủ đạo nhất, chính yếu nhất, nền tảng nhất liên quan đến lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã hội, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đường lối phát triển khoa học – kỹ thuât, văn hóa, giáo dục, đường lối quốc phòng toàn dân, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
Về mặt pháp lý, Hiến pháp là luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tính chất luật có hiệu lực tối cao của Hiến pháp thể hiện ở các phương diện sau đây:
Một là, các quy định của Hiến pháp là nguồn, là nền tảng cho tất cả các ngành luật khác thuộc hệ thống pháp Việt Nam. Các quy định của Hiến pháp mang tính tuyên ngôn, cương lĩnh, điều chỉnh chung. Dựa trên nền tảng đó, các Luật, Pháp lệnh, Nghị định và các văn bản dưới luật khác cụ thể hóa, chi tiết hóa để điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể.
Hai là, các văn bản pháp luật khác không được mâu thuẫn, trái ngược với Hiến pháp mà phải hoàn toàn phù hợp với tinh thần, nội dung của Hiến pháp, được ban hành trên cơ sở Hiến pháp để thi hành Hiến pháp. Mọi văn bản pháp luật có nội dung trái với Hiến pháp phải bị bãi bỏ, hủy bỏ.
Ba là, các điều ước quốc tế mà nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia không được mâu thuẫn, đối lập với quy định của Hiến pháp. Khi có sự mẫu thuẫn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bảo lưu với từng phần riêng biệt.
Bốn là, tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng của mình theo quy định của Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa vụ mà hiến pháp đã quy định. Mọi hành vi vượt ra ngoài thẩm quyền mà hiến pháp đã quy định đều là vi hiến.
Năm là, tất cả các công dân của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hưởng các quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp thừa nhận và có nghĩa vụ nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp.
Sáu là, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành các văn bản pháp luật mà Hiến pháp đã quy định để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, thi hành Hiến pháp. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan nhà nước khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.
Bảy là, do vị trí vai trò đặc biệt của Hiến pháp, việc xây dựng, thông qua, ban hành, sửa đổi, thay đổi Hiến pháp phải tuân theo một trình tự đặc biệt. Chủ trương xây dựng Hiến pháp thường được biểu thị bằng một nghị quyết của Quốc hội; việc xây dựng Hiến pháp thường được tiến hành bằng một cơ quan do Quốc hội lập ra; dự thảo Hiến pháp được lấy ý kiến rộng rãi của nhiều tầng lớp nhân dân; việc thông qua Hiến pháp thường được tiến hành tại một kỳ họp đặc biệt của Quốc hội và chỉ được thông qua khi có một tỷ lệ phiếu đồng ý cao đặc biệt; việc sửa đổi Hiến pháp chỉ được thực hiện theo một trình tự đặc biệt quy định tại Hiến pháp; quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp được quan tâm và chỉ đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Bản chất của Hiến pháp
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm về bản chất của pháp luật nói chung cũng như của Hiến pháp nói riêng trên cơ sở nhìn nhận bản chất giai cấp của nó. Theo đó, mọi Hiến pháp đều là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, đều là công cụ mà giai cấp hoặc liên minh chính trị sử dụng để khẳng định và duy trì sự thống trị của mình. V.I.Lênin đã viết: “Bản chất của Hiến pháp là ở chỗ các đạo luật cơ bản của nhà nước nói chung và các đạo luật về quyền bầu cử các cơ quan đại diện, về chức năng của các cơ quan đó v.v.. đều thể hiện mối tương quan thực tế của các lực lượng trong đấu tranh giai cấp”[1].
Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển của nền lập hiến thế giới cũng như sự phát triển của Hiến pháp Việt Nam, Hiến pháp ngoài bản chất giai cấp còn mang bản chất xã hội. “Hiến pháp, cũng như bản thân quyền lực nhà nước, cũng luôn luôn là cơ sở pháp lý của toàn xã hội nhằm ghi nhận và thể hiện những lợi ích tương hợp của các tầng lớp xã hội, lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc, đương nhiên ở đó luôn luôn có tính đến và trên thực tế phải tính đến lợi ích và ý chí của tầng lớp, của giai cấp là lực lượng xã hội chủ đạo trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Cũng vì thế mà những khái niệm “nhân dân”, “dân tộc” luôn luôn là những khái niệm mở đầu cho các bản Hiến pháp.”[2]
Ở Việt Nam, Hiến pháp phản ánh ý chí và nguyện vọng chung của dân tộc và toàn thể nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam. Tại lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 trịnh trọng tuyên bố: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
3. Vai trò và chức năng của Hiến pháp
Hiến pháp thực hiện những vai trò và chức năng sau đây:
Trước hết, Hiến pháp hợp pháp hóa ở mức độ cao nhất sự tồn tại của chế độ chính trị, chế độ kinh tế xã hội và trật tự xã hội. Bên cạnh đó, Hiến pháp xác định địa vị pháp lý chung nhất của nhà nước, của Đảng Cộng sản, các tổ chức chính trị - xã hội, của các cá nhân trong xã hội.
Thứ hai, Hiến pháp là nền tảng, là xuất phát điểm cho quá trình phát triển và hoàn chỉnh của pháp luật, tạo khuôn khổ chung cho toàn bộ hệ thống pháp lý. Trên cơ sở các nguyên tắc, quy định chung nhất của Hiến pháp, nhà nước ta ban hành các Luật, Pháp lệnh và các văn bản dưới luật để cụ thể hóa.
Thứ ba, Hiến pháp ổn định hóa các quan hệ xã hội. Thông thường, một bản Hiến pháp có hiệu lực lâu dài và bảo đảm sự ổn định cho các quan hệ xã hội, các thiết chế chính trị
Thứ tư, Hiến pháp là văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng quy định về những vấn đề lớn, cơ bản, có tầm chiến lược lâu dài của đất nước; thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và các văn kiện Đại hội Đảng trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng nước ta.
II. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH HIẾN PHÁP NĂM 2013 VÀ SỬA ĐỔI, MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, PHẠM VI SỬA ĐỔI TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013
1. Lịch sử phát triển của Hiến pháp Việt Nam
Từ năm 1946 đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có 5 lần ban hành Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản Hiến pháp được ban hành đều chứa đựng tinh hoa của nền lập pháp Việt Nam, đánh dấu một bước phát triển mới của cả dân tộc.
1.1. Hiến pháp 1946
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta. Sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độc thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ.”. Ngày 09/1/1946 Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Hiến pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, trai, gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền lợi dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ một bản hiến pháp nào trên thế giới. Lần đầu tiên nhân dân Việt Nam được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trên mọi phương diện. Đánh giá về ý nghĩa của việc ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “... bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà... là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi á Đông... Bản Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do… phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”.
1.2. Hiến pháp năm 1959
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình đất nước ta có sự biến đổi to lớn. Miền Bắc được giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam kháng chiến chống Mỹ, thống nhất nước nhà. Ở miền bắc có những biến chuyển to lớn, kinh tế phát triển đạt được những thành tựu nhất định, giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ, liên minh giai cấp công nhân, nông dân ngày càng được củng cố và vững mạnh. "Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta cần sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới" (Lời nói đầu, Hiến pháp 1959). Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp.
Hiến pháp khẳng định nhà nước ta là nhà nước cộng hòa dân chủ, tất cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Hiến pháp ghi nhận những thành quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Với Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) được ghi nhận bằng đạo luật cơ bản của Nhà nước (tại lời nói đầu). Hiến pháp cũng khẳng định nước Việt Nam là một khối thống nhất, không thể chia cắt.
Hiến pháp năm 1959 xác định đường lối kinh tế của nước ta trong giai đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Hiến pháp cũng ghi nhận nhiều quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định trác nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm các quyền đó.
Hiến pháp năm 1959 là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình xã hội chủ nghĩa, nó là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.
1.3. Hiến pháp năm 1980
Sau chiến thắng năm 1975, nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc. Nước nhà được độc lập, tự do là điều kiện để đưa cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua bản Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1980.
So với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 có nhiều sự đổi khác. Về chế độ chính trị, Hiến pháp xác định bản chất của nhà nước là chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lần đầu tiên trong lịch sử, Hiến pháp năm 1980 thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước và xã hội trong một Điều của Hiến pháp – Điều 4. Về kinh tế, Hiến pháp năm 1980 quốc hữu hóa toàn bộ đất đai (Điều 19). Đồng thời, theo Điều 18, Nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Kế tục các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1980 xác định thêm một số quyền của công dân phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, một số quyền mới trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với thực tế của đất nước nên ko có điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện (ví dụ: quyền khám chữa bệnh không phải trả tiền, quyền được học tập không phải trả tiền…). Tổ chức bộ máy nhà nước được thiết kế theo mô hình đề cao trách nhiệm tập thể như thành lập Hội đồng nhà nước (thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước), Hội đồng Bộ trưởng.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
1.4. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế xã, hội của đất nước. Đại hội Đảng lần VI năm 1986 đã mở ra thời kỳ đổi mới ở nước ta. Ngày 15/4/1992 Quốc hội khóa VIII đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Đây là “sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước”[3].
Một trong những thay đổi nổi bật ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 là chế độ kinh tế. “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15). Mục đích chính sách kinh tế của nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức…. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.(Điều 16). Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với 2 thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hóa thị trường với nhiều thành phần kinh tế.
Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, so với Hiến pháp năm 1980 thì Hiến pháp năm 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ sung và sửa đổi. Bên cạnh các quyền công dân, Hiến pháp năm 1992 lần đầu tiên quy định: “các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng” (Điều 50). Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 xác lập quyền tự do kinh doanh của công dân (Điều 57), đây là chìa khóa quan trọng để mở cánh cửa vào nền kinh tế thị trường.
Về tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1992 đã quy định một số sự thay đổi so với Hiến pháp năm 1980, nhằm bảo đảm tính linh động trong việc quản lý điều hành của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được thể hiện trong Hiến pháp “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đánh dấu sự chuyển mình của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các bản Hiến pháp trước. Hiến pháp năm 1992 đã đánh dấu sự phục hưng và phát triển nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam trong thời gian 20 năm sau khi có hiệu lực.
2. Sự cần thiết ban hành
2.1. Sự cần thiết
Hiến pháp năm 1992 sử đổi, bổ sung năm 2001 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây gọi chung là Cương lĩnh) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vì vậy, việc ban hành Hiến pháp năm 2013 là thật sự cần thiết để bảm đảm đổi mới đồng bộ về cả kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế.
2.2. Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính bản chất của chế độ ta đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ hai, thể chế hóa kịp thời những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng.
Thứ ba, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.
3. Quan điểm chủ đạo trong ban hành Hiến pháp năm 2003
Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 dựa trên các quan điểm chủ đạo sau đây:
- Dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đảng; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.
- Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Ban hành Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ, khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
4. Phạm vi những nội dung được sửa đổi trong Hiến pháp năm 2013
Căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các văn kiện khác của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Kết luận của Hội nghị lần năm của Ban chấp hành Trung ương khóa XI và Nghị quyết của Quốc hội, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 được sửa đổi theo 9 nội dung cơ bản, gồm:
Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa và làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thứ hai, tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ ba tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ năm, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Thứ sáu tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ tám, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa bình khu vực và thế giới.
Thứ chín, sửa đổi kỹ thuật lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp để bảo đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp.
Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm một chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước ; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo; quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, hiệu lực và quy trình sửa đổi Hiến pháp.
III. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Chế độ chính trị là nội dung và phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị của một quốc gia, mà trọng tâm là của nhà nước. Nền tảng và khuôn khổ của chế độ chính trị là Hiến pháp. Do tính chất và tầm quan trọng đặc biệt của chế độ chính trị đối với sự phát triển của xã hội nên trong các bản Hiến pháp của nước ta và của nhiều nước trên thế giới, chế độ chính trị thường được ghi nhận trong chương đầu tiên, với ý nghĩa là nội dung cơ bản, chi phối các nội dung khác của Hiến pháp.
Trong Hiến pháp năm 2013, chế độ chính trị được quy định tại Chương I trên cơ sở kế thừa Chương I Hiến pháp năm 1992 (Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm 1992 (Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh), vì đây là những nội dung gắn liền với chế độ chính trị. So với 2 chương của bản Hiến pháp trước, Chương I Hiến pháp năm 2013 giảm 6 điều, chỉ giữ nguyên lại Điều 1, sửa đổi bổ sung tất cả các điều còn lại.
Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa, khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Các quy định và nguyên tắc cơ bản của Chế độ chính trị trong Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện một các đầy đủ và toàn diện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thiết lập, củng cố và bảo vệ chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các quy định và nguyên tắc trong chương Chế độ chính trị là cơ sở, nền tảng chính trị của các Chương về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương.
1. Về chủ quyền quốc gia
Điều 1 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định : “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.”
Như vậy, kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Hiến pháp quy định tên của nước Việt Nam vẫn là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – tên gọi đã được xác lập và sử dụng ổn định từ năm 1976. Từ đó, khẳng định bản chất của nhà nước ta là cộng hòa – nhà nước do nhân dân thành lập và làm chủ, đồng thời, khẳng định rõ mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc duy trì tên nước sẽ bảo đảm sự ổn định của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong nước, tránh sự xáo trộn không cần thiết, gây tốn kém tài lực của nhà nước.
Bên cạnh đó, quy định này tiếp tục khẳng định chủ quyền của nước ta đối với đất nước, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Quy định này của Hiến pháp mang tính khái quát, từ đó, các quyền chủ quyền cụ thể của đất nước ta với vùng đất liền, lòng đất, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các hải đảo khác, vùng nội thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng trời sẽ được làm rõ và quy định cụ thể trong các luật chuyên ngành như Luật Biển Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia.
2. Về bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước là một vấn đề hết sức quan trọng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì : «Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền ấy về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai ? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp » [4].
Trong suốt quá trình tồn tại lịch sử của mình, thông qua 4 lần ban hành Hiến pháp trước đó, nhà nước Việt Nam luôn khẳng định bản chất dân chủ, dựa trên nền tảng nhân dân và vì nhân dân của mình. Kế thừa tư tưởng này, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định :
«1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. »
So với Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nội dung : « Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ ». Quy định này đã khẳng định hơn nữa nguồn gốc quyền lực nhà nước xuất phát từ Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, để phục vụ Nhân dân, nền tảng quyền lực của nhà nước là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong mối quan hệ Nhân dân – Nhà nước thì Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, là người giao phó quyền lực cho nhà nước, còn nhà nước là công cụ để nhân dân giao quyền, thực hành quyền lực đó để mang lại lợi ích cho nhân dân.
Đồng thời, quy định tại Điều 2 còn cho thấy dân chủ là thuộc tính của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia đông đảo vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội.
Điều 3 của Hiến pháp quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với Nhân dân : « Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân ; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tư do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện ». Quy định này lại một lần nữa khẳng định bản chất vì Nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chăm lo, bảo vệ, nâng cao đời sống và quyền lợi của nhân dân là tôn chỉ và là mục tiêu phán đấu của nhà nước.
Về các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, Điều 6 quy định : « Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước ».
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp quy định đầy đủ và phát triển thành nguyên tắc về việc “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp”. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013 từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước. Các hình thức thể hiện dân chủ trực tiếp khá đa dạng như trưng cầu ý dân, bầu cử, thực hiện dân chủ cơ sở. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước một cách gián tiếp thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước. Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu lên, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân trao quyền để thực hiện quyền lực và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
3. Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Kế thừa tư tưởng của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, thể chế hóa cương lĩnh của Đảng. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, bản chất quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân. Nhà nước do nhân dân tổ chức ra, được nhân dân trao quyền và thực hành quyền lực vì lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, về nguyên tắc tổ chức quyền lực thì “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2). Nguyên tắc này đã kế thừa Cương lĩnh và các chính sách của Đảng, đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này mang tính nền tảng, được cụ thể hóa trong các chương quy định về tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp.
Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước là thống nhất. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại biểu cho nhân dân, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Xuất phát từ Quốc hội, các cơ quan khác của nhà nước như Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân được thành lập. Các cơ quan này đều phải chịu trách nhiệm trước quốc hội. Tương tự như vậy, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. Sự tập trung quyền lực như vậy có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự thống nhất trong vận hành quyền lực nhà nước, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột giữa các cơ quan nhà nước.
Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng vẫn có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là một nguyên tắc mới đã được thể hiện trong Cương lĩnh của Đảng ta. Nguyên tắc này là cơ sở để các cơ quan nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và hiệu quả quyền lực trong phạm vi được giao. Đây chính là cơ chế để ngăn chặn sự lạm quyền của mỗi nhánh quyền lực, hạn chế sự tha hóa quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Đồng thời, nguyên tắc này còn giúp đấu tranh chống tệ quan liêu, tham những, lãng phí, ngăn chặn vi phạm pháp luật trong nội bộ bộ máy nhà nước. Nội dung cụ thể của nguyên tắc này sẽ lần lượt được làm rõ trong các quy định cụ thể của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ ba, về vai trò của pháp luật, Điều 8 Hiến pháp quy định:
“1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức viên chức phải tông trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”
Đây là một quy định quan trọng thể hiện đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được đề cao và là công cụ quản lý cơ bản của nhà nước. Tất cả mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội, kể cả cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ theo pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được ngăn chặn.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
4. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là lực lượng lãnh đạo nhà nước, dân tộc và xã hội Việt Nam đạt được nhiều thắng lợi vẻ vang. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát huy vai trò và sự lãnh đạo của Đảng ngày càng quan trọng.
Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội luôn được thể hiện trong các bản Hiến pháp. Kế thừa tư tưởng đó. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nước ta.
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có sự bổ sung và phát triển quan trọng vì đã khẳng định đầy đủ bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Vai trò lãnh đạo này là tất yếu, đã được lịch sử chứng minh qua các cuộc cách mạng, các cuộc chiến tranh và công cuộc đổi mới ở đất nước ta.
Đảng không lãnh đạo một cách chung chung mà mang tính định hướng, thông qua Cương lĩnh, chiến lược, chính sách, chủ trương lớn cho từng thời kỳ phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Đảng vạch ra phương hướng và nguyên tắc cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân. Đảng còn lãnh đạo thông qua công tác cán bộ bằng việc phát hiện, lựa chọn những đảng viên ưu tú và người ngoài Đảng có phẩm chất để giới thiệu vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu cử, bổ nhiệm. Ngoài ra, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua các Đảng viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu, tập hợp, giáo dục và động viên quần chúng tham gia quản lý nhà nước.
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một quy định mới về trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Và, mặc dù Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nhưng Đảng vẫn hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Quy định này bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, là cơ sở để nhăn chặn sự tha hóa có thể xảy ra. Mặt khác, quy định như vậy còn nhằm ngăn chặn các vi phạm pháp luật của đội ngũ Đảng viên, nhắc nhở họ phải tự giác, gương mẫu, nghiêm túc chấp hành pháp.
5. Về chính sách dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
Chính sách dân tộc và đường lối đại đoàn kết là một trong những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, một trong những nội dung cơ bản phản ánh bản chất của chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể nói đường lối đại đoàn kết và chính sách dân tộc là một trong những yếu tố cơ bản tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng nhân dân và các cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định về chính sách dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc:
“1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”
Như vậy, quy định này của Hiến pháp đã khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Đất nước này là do sương máu của các dân tộc anh em cùng nhau chiến đấu mà tạo ra, cùng nhau bảo vệ, giữ gìn và cùng được hưởng mọi thành quả của sự đổi mới. Các dân tộc, không phụ thuộc vào số lượng người, vị trí địa lý, đều có sự bình đẳng. Mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ đều bị ngăn cấm. Hơn thế nữa, một số dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn sẽ được Nhà nước tạo điều kiện để phát huy nội lực, phát triển sánh vai với các dân tộc anh em.
6. Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của chế độ chính trị của mỗi nước không chỉ được phản ánh trong các chính sách đối nội mà còn thể hiện rõ nét trong chính sách đối ngoại, trong việc thiết lập và giải quyết quan hệ với các nước khác.
Từ khi thành lập đến nay, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam luôn chủ trương thực hiện một cách nhất quán chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị và hợp tác vì sự tiến bộ xã hội trên cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của các nước khác. Với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, Nhà nước ta đã không ngừng mở rộng quan hệ với các nước, uy tin của Việt Nam trên thế giới không ngừng được tăng cào.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại của nhà nước ta nhưng có sự sửa đổi, bổ sung cho thích hợp với tình hình mới. Điều 12 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Quy định trên trước hết khẳng định, mục tiêu của đường lối đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Việc xác định lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc của đường lối đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới được coi là yêu cầu hàng đầu và là kim chỉ nam trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của đường lối đối ngoại này được thể chế hóa tại Hiến pháp 2013 nhằm khẳng định rõ hơn định hướng: Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích của dân tộc.
Phương châm của đường lối đối ngoại là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Hiến pháp năm 2013 nêu rõ Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việc trở thành thành viên trong cộng đồng quốc tế là một đòi hỏi, là tất yếu khách quan. Đây là động lực để Việt Nam tăng cường giao lưu và phát triển kinh tế, đóng góp vào hòa bình, thịnh vượng chung của thế giới. Sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của Việt Nam tại các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời quy định trên cũng khẳng định nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam là tuân thủ theo luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác.
Có thể khẳng định đường lối đối ngoại trên đã thể hiện rõ bản chất của Nhà nước ta và truyền thống hòa hiếu, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân ta và phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới hiện đại.
7. Về vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong hệ thống chính trị
Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức thành viên khác của Mặt trận đã đóng góp công sức và có vai trò to lớn đối với công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Các tổ chức này đã thể hiện tiếng nói của nhân dân, đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân. Các tổ chức trên cùng là bộ phận của hệ thống chính trị, hợp thành cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Vì vậy, việc hiến định vai trò, vị trí của các tổ chức này là cần thiết, nhằm góp phần phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.
Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”
Quy định trên đã khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tầng lớp xã hội và các cá nhân Việt Nam ở trong và ngoài nước. Với tính chất đó, mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của Mặt trận Tổ quốc là phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một vai trò của Mặt trận Tổ quốc là tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội. Quy định như vậy đã làm rõ hơn đồng thời đề cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc.
Bên cạnh đó, Hiến pháp cùng quy định về các tổ chức thành viên nòng cốt của Mặt trận bao gồm: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam. Những tổ chức này có trách nhiệm đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức minh, đồng thời phối hợp với nhau, tạo thành sức mạnh thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10).
Hội nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân Việt Nam, là thành viên của hệ thống chính trị. Trong phạm vi chức năng của mình, Hội nông dân Việt Nam tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; đoàn kết, giáo dục nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nông dân; cùng với các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của nông dân và những người lao động khác; kiến nghị với Nhà nước những vấn đề cần thiết trong chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn…
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội, liên minh tự nguyện của thanh niên Việt Nam, là đội dự bị và cánh tay đắc lực của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chức năng của mình, Đoàn thanh niên có trách nhiệm tập hợp, đoàn kết, giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ; phối hợp với các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác để chăm lo, bảo vệ quyền lợi của thế hệ trẻ và đề xuất các chính sách về thanh niên.
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ Việt Nam, là thành viên có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tập hợp, thu hút phụ nữ tham gia vào các công việc của Nhà nước và xã hội, thúc đẩy bình đẳng giới, phát huy vai trò của nữ giới trong gia đình và xã hội.
Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho đội ngũ cựu chiến binh của Việt Nam. Hội tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng và động viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản chất cách mạng, tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền, phát huy dân chủ, góp phần giữ ổn định chính trị, tăng cường an ninh quốc phòng, tham gia vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Với vị trí và vai trò của mình, các thành viên trong hệ thống chính trị của nước ta có nhiệm vụ quan trọng, với các hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì hiệp thương với các tổ chức xã hội khác để giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia tích cực vào hoạt động bầu cử bảo đảm hoạt động bầu cử phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Thứ hai, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức tham gia xây dựng pháp luật, có quyền trình các dự án luật, pháp lệnh trước quốc hội, tham gia góp ý kiến trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật.
Thứ ba, tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, tham gia tuyên tuyền pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật của thành viên, đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích của thành viên.
IV. NỘI DUNG VÀ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ ĐỘ KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI, GIÁO DỤC, KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Hiến pháp năm 1992 quy định tại chương II “Chế độ kinh tế” bao gồm 15 Điều và chương III “văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ” bao gồm 14 Điều. Quy định như vậy chưa thể hệ mối liên hệ giữa kinh tế với văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã gộp chương II và chương III chủa Hiến pháp năm 1992, kết hợp sửa đổi, bổ sung thành một chương (chương III) quy định về “kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Chương này chỉ còn 14 Điều được quy định theo tinh thần bao quát, mang tính nguyên tắc, nhằm đảm bảo sự gắn kết, mối liên hệ giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường. Những nội dung cụ thể về các nội dung kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường sẽ quy định trong các luật (Luật Giáo dục, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Bảo vệ môi trường…
Bên cạnh những nội dung, quy định được kế thừa từ Hiến pháp năm 1992, các quy định về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường theo Hiến pháp năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu mới. Trong đó có một số điểm mới cơ bản sau đây:
1. Khái quát chung về chế độ kinh tế
Do tầm quan trọng – mang tính quyết định – của vấn đề kinh tế đối với đời sống của mỗi quốc gia, nên với tư cách là đạo luật cơ bản, không có một bản Hiến pháp nào không có quy định về nội dung của chế độ kinh tế. Tuy nhiên, các bản Hiến pháp của các nước khác nhau có sự khác nhau về mức độ, phạm vi quy định. Căn cứ vào mức độ quy định, có thể phân định thành hai mô hình hiến pháp quy định về chế độ kinh tế.
Mô hình thứ nhất, Hiến pháp không quy định một cách trực tiếp chế độ kinh tế, hay chỉ quy định tối thiểu về chế độ kinh tế, mà Hiến pháp của Hoa Kỳ là một điển hình. Trong 194 quốc gia có Hiến pháp, có tới 105 quốc gia không quy định tính chất, mô hình nền kinh tế trong Hiến pháp. Lý do của việc không quy định chế độ kinh tế trong Hiến pháp là nhà nước không can thiệp vào lĩnh vực kinh tế, làm kinh tế không phải chức năng của nhà nước. Thị trường là tự do theo học thuyết “Bàn tay vô hình” của Adam Smith (1776). Tuy vậy, Hiến pháp của các quốc gia này vẫn can thiệp một cách gián tiếp bằng cách quy định các quyền cơ bản, quyền con người làm nền tảng cho chế độ kinh tế: quyền tư hữu tài sản, trong đó có quyền tư hữu đất đai, quyền lao động, quyền tự do nghề nghiệp, quyền lập hội, quyền tham gia công đoàn, hội họp, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng trong các quan hệ kinh tế; bình đẳng giữa các thành phần kinh tế… Những quyền ấy là những quyền tự nhiên có tính chất phổ biến, không chuyển nhượng và không thể bị tước đoạt. Mục đích của việc thành lập ra nhà nước là để bảo vệ cho mọi người dân được thụ hưởng các quyền cơ bản, để họ có cơ hội hạnh phúc hơn, không để cho bất kỳ chủ thể nào tước đoạt chúng, kể cả nhà nước. Vì một lẽ hiển nhiên rằng, khi một nhà nước có trách nhiệm giải phóng tôi khỏi ách nô lệ của người hàng xóm thì cũng có khả năng bắt tôi làm nô lệ.
Hiến pháp đề cập đến chế độ kinh tế thường là đề cập đến những vấn đề có liên quan đến việc bảo hộ chế độ sở hữu tài sản của con người, tức là bảo vệ chế độ tư hữu tài sản. Một khi con người đã có quyền được sống thì mọi thứ liên quan đến cuộc sống của họ đều quan trọng, nhưng trước hết phải kể đến quyền tư hữu tài sản. Khái niệm tư hữu được các lý thuyết gia hiện đại hiểu ở nghĩa rất rộng. Khái niệm này vượt ra khỏi quan niệm thuần túy về mặt pháp lý là chỉ có quyền về tài sản vật chất, mà còn cả tài sản tinh thần, cho đến các tập tục, quy tắc và những chuẩn mực xác định cách sử dụng, được phép hay không được phép của các tài sản. Kiểm soát cách sử dụng tài sản hữu hình cho phép gián tiếp kiểm soát con người. Lý thuyết đó có xu hướng cho rằng, mọi quan hệ của con người với nhau có thể quy về quan hệ giữa những đồ vật. Trên tinh thần này, bảo vệ quyền con người tức là bảo vệ quyền sở hữu. “Quyền con người đơn giản là một bộ phận của những quyền sở hữu”. Tiếp theo vấn đề tư hữu là vấn đề bảo đảm quyền tự do giao kết hợp đồng giữa các cá nhân và giữa các tổ chức khác nhau. Mô hình này xét về mặt thực tiễn có tính áp dụng khá cao, giúp cho người Mỹ có thể uyển chuyển thay đổi chế độ quản lý kinh tế của mình từ chỗ một nền kinh tế chủ yếu và thuần khiết dựa trên mô hình của nền kinh tế tự do cạnh tranh chuyển sang tình trạng dành một mức độ vừa phải cho sự điều tiết của nhà nước những năm gần đây, mà Hiến pháp của họ không cần thiết phải có một sự thay đổi nào, mà vẫn tỏ rõ hiệu lực.
Chỉ chừng đó thôi cũng đủ cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường tự do, có cơ sở cho việc đảm bảo quyền của người dân trong lĩnh vực kinh tế mà không cần thiết phải có những quy định riêng, hay một chương riêng dành cho việc quy định chế độ kinh tế trong Hiến pháp.
Mặc dù trong lĩnh vực kinh tế, thị trường vận hành tốt hơn nhà nước, nhưng cũng có những hoạt động khác của kinh tế đòi hỏi phải có sự liên quan đến nhà nước. Không có nền tảng lý thuyết kinh tế nào ủng hộ chính sách tự do kinh doanh thuần túy. Không một nền kinh tế nào hoạt động hiệu quả được nếu như nhà nước không đóng một vai trò thích hợp và ngay cả trong trường hợp nếu vai trò đó được giới hạn như quan điểm theo học thuyết “bàn tay vô hình”. Ngay cả Hoa Kỳ, nơi mà chủ nghĩa tự do kinh doanh và tình trạng không tin tưởng vào nhà nước là trọng tâm của việc hình thành nên xã hội, thì các hành động của nhà nước cũng luôn luôn tỏ ra vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của thị trường. Morris Abraham, cựu Đại sứ Mỹ tại Liên hiệp quốc về vấn đề nhân quyền và cựu Chủ tịch Ủy ban quan sát của Liên hiệp quốc tại Giơ-ne-vơ đã phát biểu: “Chỉ riêng tự do không thể đảm bảo cho thành công về kinh tế, nhưng sự cưỡng ép chắc chắn sẽ mang lại thất bại”. Nhưng tất cả những sự can thiệp đó thường chỉ thể hiện trong các chủ trương chính sách của nhà nước thông qua luật thuế, mà không bằng các quy định của Hiến pháp.
Mô hình thứ hai, hiến định chế độ kinh tế. Hiến pháp dành một chương riêng hay một số quy định về chế độ kinh tế, mà Hiến pháp của Liên Xô cũ là điển hình. Theo mô hình này thì mọi vấn đề có liên quan đến chế độ kinh tế đều phải được điều chỉnh từ phía nhà nước, từ nội dung của chế độ sở hữu cho đến các vấn đề khác như mục tiêu, vai trò của từng thành phần kinh tế, các chỉ tiêu phát triển kinh tế đều phải được quy định từ trên thông qua pháp luật và chỉ thị của cấp trên. Người ta gọi là mô hình chế độ kinh tế kế hoạch tập trung.
Hiến pháp là bản văn quy định về lĩnh vực hoạt động của nhà nước, lĩnh vực chính trị. Cũng như lĩnh vực khác thuộc thượng tầng kiến trúc, chính trị rất phụ thuộc vào kinh tế – hạ tầng cơ sở. Đó là mối quan hệ biện chứng mà chủ nghĩa Mác đã chỉ ra giữa chính trị và kinh tế. Kinh tế quyết định chính trị, nhưng bản thân chính trị cũng có tác động ngược trở lại đến sự phát triển của kinh tế. Sở dĩ chế độ kinh tế cũng như các chế độ văn hóa – xã hội khác phải được quy định trong Hiến pháp, vì xét cho cùng, sự phát triển chính trị đều có mục tiêu cho sự phát triển kinh tế – xã hội.
Hiến pháp Việt Nam thường có chương riêng quy định về chế độ kinh tế. Tại Hiến pháp 1946, chế độ kinh tế nước ta còn là tự nhiên, tự do với nền kinh tế nhiều thành phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới (sau gọi là cách mạng dân chủ nhân dân). Hiến pháp quy định quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 12).
Hiến pháp 1959 đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ nghĩa xã hội (CNXH), biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN) với công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến (Điều 9). Thời kỳ này, Hiến pháp còn thừa nhận tồn tại 4 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc, tức là tư hữu tài sản. Mặc dù như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 thừa nhận sở hữu tư nhân như nhiều Hiến pháp của các nhà nước – theo mô hình Hiến pháp thứ nhất – nhưng sau đó Nhà nước lại có chủ trương đẩy mạnh công cuộc cải tạo XHCN, nhanh chóng xóa bỏ các hình thức sở hữu phi XHCN, tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất của nhà nước đối với kinh tế bằng các công cuộc cải cách ruộng đất, và cải tạo công thương, đưa người nông dân vào Hợp tác xã. Sở dĩ có hiện tượng này vì Điều 9 của bản Hiến pháp năm 1959 quy định rõ: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân”.
Khác với Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 dành một chương riêng quy định một chế độ kinh tế thuần túy XHCN với một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với hai hình thức sở hữu tương ứng là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Thực hiện một chế độ quản lý kinh tế theo kế hoạch tập trung thống nhất kết hợp quản lý theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ. Chính những quan niệm chủ quan về chế độ kinh tế như vậy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự khủng hoảng kinh tế – xã hội những năm cuối cùng của thế kỷ 20, buộc Việt Nam phải có một công cuộc đổi mới.
Hậu quả của quan niệm duy ý chí về CNXH và về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH nàythực sự nghiêm trọng. Thực tế đó buộc Đảng và Nhà nước ta phải nhìn nhận lại những quan niệm giáo điều về xây dựng CNXH. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN được tiến hành mạnh mẽ. Hiến pháp 1992 thể chế hóa đường lối này của Đảng. Việc thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất bên cạnh các loại hình sở hữu khác là điểm mấu chốt trong chế độ kinh tế nước ta giai đoạn này. Các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước được phát triển, bình đẳng trước pháp luật, tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh.
Hiến pháp 1992 mở ra một giai đoạn mới – Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Chế độ kinh tế được quy định là kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Nhận thức mới này rút ra từ bài học của những sai lầm, nóng vội, duy ý chí trong quá khứ. Hiến pháp đã quy định những nội dung mới về chế độ kinh tế như chính sách kinh tế, hình thức sở hữu, chế độ lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng và chế độ quản lý kinh tế. Cái quan trọng nhất của chế độ kinh tế là quy định sở hữu tư nhân được tồn tại và được Hiến pháp bảo đảm. Thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển trong chế độ kinh tế nước ta thời kỳ đổi mới nhận thức lại CNXH. Chính chủ trương này đã góp phần to lớn cho việc giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ, bổ sung cho kinh tế XHCN, đã giúp Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, đặt cơ sở cho sự mở cửa và hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Khác với Hiến pháp 1980, bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu phi XHCN như sở hữu tư nhân, Nhà nước Việt Nam vẫn chủ trương không từ bỏ những nguyên tắc kinh tế XHCN, nên kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu nhà nước (SHNN) hay còn được gọi là sở hữu toàn dân vẫn chiếm địa vị chủ đạo. Chính điều này đã tạo nên sự “không thuần khiết” của một nền kinh tế thị trường. Hiện nay, có nên chia cắt nền kinh tế thành các khu vực kinh tế hay không đang là câu hỏi lớn. Càng không nên ưu ái bất cứ một thành phần kinh tế nào, kể cả khu vực kinh tế nhà nước (KTNN). Việc ưu tiên cho một thành phần kinh tế sẽ ngang bằng với việc tước đoạt quyền bình đẳng trong kinh tế của thành phần bên kia.
2. Điểm mới của Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 làm rõ hơn tính chất, mô hình kinh tế, vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, việc quản lý và sử dụng đất đai và quy định một điều mới về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia và các nguồn tài chính công khác.
2.1. Về tính chất, mô hình nền kinh tế: Trên cơ sở kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 quy định nước Cộng hòa XHCN Việt Nam “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”[5] (Điều 50). Quy định như vậy vừa thể hiện được bản chất, vừa thể hiện được động lực và mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội. Qua quy định này, cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã xác định múc tiêu phát triển kinh tế một cách bền vững, kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và giải quyết các vấn đề xã hội.
Khoản 1 Điều 51 khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Cơ chế thị trường là hệ quả tất yếu của kinh tế hàng hóa, đó là cơ chế chấp nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và sự bình đẳng giữa các đơn vị kinh tế. Các đơn vị kinh tế được tự chủ trong sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, mỗi đơn vị kinh tế phải tự lựa chọn lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, phải tự hạc toán, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật để tồn tại và phát triển. Cơ chế thị trường có tác dụng phát huy được tính năng động, sáng tạo và hiệu quả của các đơn vị kinh tế, hạn chế hiện tượng trì trệ, ỷ lại vào sự bảo cấp của nhà nước. Việc giao lưu giữa các đơn vị kinh tế, giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới, tạo điều kiện để các đơn vị kinh tế học hỏi kinh nghiệm, áp dụng khoa học và công nghệ để vươn lên. Cơ chế thị trường tự nó sẽ đào thải các đơn vị kinh tế làm ăn yếu kém, thua lỗ.
Bên cạnh mặt tích cực, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt tiêu cực nhất định. Trước hết, vì lợi nhuận nền kinh tế thị trường làm phát sinh hiện tượng tiêu cực như: làm hàng giả, hàng kém phẩm chất, buôn lậu, phân hóa giàu nghèo, bóc lột sức lao động. Để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu chực của nền kinh tế thị trường, Nhà nước chủ trương quản lí và điều tiết nền kinh tế bằng những cách thức khác nhau, bảo đảm cho nó phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Theo hướng đó, sự phát triển của nền kinh tế nước ta phải tạo ra nhiều công ăn việc làm, phù hợp với năng lực và sở thích của người lao động, tránh tình trạng thất nghiệp. Mặt khác, phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện của công dân. Người lao động phải được hưởng thành quả lao động phù hợp với lức lao động mà họ bỏ ra, tiến tới xóa bỏ bóc lột sức lao động. Những người già yếu, bệnh tật, không nơi nương tựa phải được giúp đỡ về mặt vật chất, tinh thần. Vì vậy, phải không ngừng nâng cao năng suất lao động trên cơ sở sử dụng hợp lý sức lao động, tài nguyên của đất nước cũng như áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến.
2.2. Về các thành phần kinh tế:
Vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác, vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế định hướng XHCN được quy định tại các Điều 51, Điều 52 Hiến pháp năm 2013.
Điều 51 Hiến pháp năm 2013:
“1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”.
Trong đó gồm các nội dung nhằm khẳng định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Điều 52 Hiến pháp quy định Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
Các quy định này thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, khẳng định vị trí của các thành phần kinh tế (đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân) cũng như sự bình đẳng trong sản xuất, kinh doanh giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế.
Trên cơ sở kế thừa nội dung các quy định của Hiến pháp năm 1992, các nội dung về thành phần kinh tế được quy định trong Hiến pháp năm 2013 có một số điểm mới sau:
+ Quy định khái quát, không nêu cụ thể các thành phần kinh tế nhằm đảm bảo tính chất của một đạo luật cơ bản. Các nội dung về tên gọi, vai trò của từng thành phần kinh tế sẽ được xác định trong các luật và các chính sách cụ thể của Nhà nước.
+ Quy định rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế cấu thành nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh theo pháp luật.
+ Lần đầu tiên Hiến pháp ghi nhận vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng, xóa bỏ độc quyền trong sản xuất, kinh doanh.
Tinh thần của Hiến pháp là không đồng nhất kinh tế nhà nước (trong đó có ngân sách nhà nước và các nguồn lực kinh tế-tài chính khác của Nhà nước) với doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo chứ không phải doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo.
Bên cạnh đó, lần đầu tiên, vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân được ghi nhận trong Hiến pháp (Khoản 3 Điều 51). Theo đó, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải hoạt động theo cơ chế thị trường, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, các cơ chế, chính sách tạo ra sự bất bình đẳng. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác được đối xử bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cùng hoạt động trong một hành lang pháp lý chung và theo cơ chế thị trường, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Đây là cơ sở để phát huy vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm và doanh nghiệp, doanh nhân là đội quân xung kích.
2.3. Về các hình thức sở hữu:
Cùng với chính sách kinh tế, chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản trong chế độ kinh tế. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh các quan hệ sở hữu luôn luôn đặt ra đối với Hiến pháp các nước cũng như Hiến pháp nước ta.
Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, tôn trọng đa dạng hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân cả về tư liệu sản xuất, các quyền tài sản và sở hữu trí tuệ. Kế thừa và phát triển quy định về sở hữu toàn dân trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp tiếp tục khẳng định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý (Điều 53)[6].
Về tài sản thuộc sở hữu toàn dân, kế thừa quy định về sở hữu toàn dân của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp cận mới, đúng đắn và chính xác hơn về phạm vi, đối tượng các loại tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân, Hiến pháp năm 2013 quy định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
2.4. Về quản lý và sử dụng đất đai[7]: Đất đai là lãnh thổ thiêng liêng của quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Vì vậy, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Hiến pháp bổ sung quy định “quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ” (Khoản 2 Điều 54) để thể hiện thái độ tôn trọng, bảo vệ của Nhà nước đối với quyền sử dụng đất của công dân, vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục phòng, chống và xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm trong thực hiện pháp luật về đất đai.
Nước ta vốn là nước nước nông nghiệp, nông dân chiếm đại bộ phận trong dân cư, thì đất đai có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Do vậy, mỗi khi sửa đổi, bổ sung, hoặc ban hành Hiếp pháp, Luật Đất đai mới… thì việc thể chế hóa chế độ sở hữu đất đai trong Hiến pháp, cũng như trong Luật Đất đai luôn thu hút được sự chú ý đặc biệt của nhân dân. Trước hết, cần khẳng định rằng, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là khái niệm “mơ hồ”, “tù mù”, người dân không có thực quyền gì đối với đất đai. Bởi vì, sở hữu toàn dân về đất đai không đồng nhất với sở hữu nhà nước về đất đai. Sở hữu toàn dân về đất đai phải được hiểu là đất đai không thuộc sở hữu của riêng ai, toàn thể nhân dân là chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và được giao nhiệm vụ thống nhất quản lý. Việc quy định Nhà nước ở nước ta là đại diện chủ sở hữu đất đai và thống nhất quản lý xuất phát từ bản chất của Nhà nước là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân do dân và vì dân, mọi tài sản, tư liệu sản xuất do Nhà nước đại diện cho dân là chủ sở hữu đều được sử dụng vào mục đích phục vụ lợi ích chung của toàn thể nhân dân.
Việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta hiện nay còn tránh được những hậu quả do chế độ sở hữu tư nhân đất đai gây ra. Nghiên cứu sản xuất nông nghiệp, trực tiếp là địa tô trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, Các Mác và sau đó là V.I.Lênin đã chỉ ra tính chất vô lý của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất, nguồn gốc đẻ ra địa tô, làm cho giá cả nông phẩm tăng, kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Để khắc phục tình trạng này, V.I.Lênin đã chủ trương phải quốc hữu hoá đất đai, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, thay vào đó là chế độ công hữu về đất đai.
Đối với nước ta, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, chế độ sở hữu phong kiến về đất đai mà hình thức sở hữu đặc trưng là sở hữu tư nhân về đất đai đã kìm hãm sự phát triển nông nghiệp và dẫn đến tình cảnh đại đa số nông dân không có ruộng đất, phải thuê lại của địa chủ, phong kiến nên bị bóc lột địa tô rất nặng nề. Do vậy, việc xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến về đất đai là một trong những mục tiêu của cách mạng nước ta do nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ở nước ta hiện nay, thực hiện chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, một mặt sẽ là phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta giành được trải qua quá trình đấu tranh vô cùng gian khổ với bao sự hy sinh, mất mát của các thế hệ chiến sĩ cách mạng Việt Nam; mặt khác, sẽ tạo ra tiền đề, cơ hội dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp địa chủ mới - giai cấp từng gây bao đau khổ cho nông dân nước ta trước đây. Chỉ có thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, chúng ta mới xóa bỏ tình trạng một nhóm người dùng độc quyền sở hữu đất đai để bóc lột người sử dụng đất.
Mặc dù hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, song cũng không thể thực hiện đa hình thức sở hữu về đất đai. Bởi vì đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và có hạn; là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân, là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, không giống như các tư liệu sản xuất, tài sản thông thường khác. Do đó, đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật thì việc khai thác, sử dụng đất đai mới bảo đảm hiệu quả cao, nhằm phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong thời gian qua, ở nước ta nảy sinh một số tiêu cực, hạn chế trong quản lý, sử dụng đất đai, song những hạn chế, tiêu cực đó không phải do bản chất của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai gây ra. Những hạn chế, tiêu cực đó một mặt, do sự yếu kém trong quản lý đất đai của Nhà nước ta, chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ, đến nay, chủ trương, chính sách, pháp luật về đất đai còn một số nội dung chưa đủ rõ, chưa phù hợp; tổ chức bộ máy, năng lực đội ngũ cán bộ về quản lý đất đai còn không ít hạn chế, yếu kém, một bộ phận còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng; mặt khác